Kính gửi quý anh chị truyện audio bbok Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng.
Tôi rất vui mỗi khi tìm được bài viết của cô Thuỵ Khê.
Cách phê bình của cô không có làm người đọc nhàm chán mà gần như tự nó đưa chúng ta vào một thế giới văn chương riêng với các tác phẩm và những cây viết ngồi ngây ra đấy để nghe cô nói về tác phẩm của họ.
Sự thật là thế nào, có hay, có đúng, có sai, có thêm thắt chút nào không?
Còn những người như cô Thụy Khê thì văn học Việt Nam đúng là hân hạnh vô cùng.
Cám ơn cô và mời quý anh chị đọc bài sưu tầm dưới đây.
Caroline Thanh Hương
Thụy Khuê
Kết thúc chương trình sau 19 năm hiện diện: Vũ Trọng Phụng và kiệt tác Số đỏ
Ảnh hưởng Vũ Trọng
Phụng trong đời sống
Nếu ở ngoài Bắc, các tác phẩm
của Vũ Trọng Phụng bị phong toả trong khoảng trên dưới bốn mươi năm, từ
1945 đến thời kỳ đổi mới, ảnh hưởng ngôn ngữ của Vũ Trọng Phụng không
đến được với đông đảo quần chúng, thì ở trong Nam, từ 1954 đến 1975,
ngôn ngữ Vũ Trọng Phụng đã đi sâu vào đại chúng, đã làm nền cho những
cách viết phóng sự, mà Vũ Bằng lớp trước, rồi Hoàng Hải Thủy, Văn Quang,
Chu Tử... lớp sau, đều là những môn đệ của Vũ Trọng Phụng.
Để đo lường ảnh hưởng ngôn
ngữ của Vũ Trọng Phụng trong đời sống hàng ngày, chỉ cần xét hai chữ
Giông tố, viết đúng ngữ vựng phải là Dông tố. Nhưng Vũ Trọng
Phụng (cũng như nhiều nhà văn Bắc) thường lầm gi với d, như
trường hợp Thạch Lam với Theo giòng (chính ra là Theo dòng),
hoặc Nhất Linh với Giòng sông Thanh Thủy (thực ra là Dòng sông
Thanh Thủy).
Trong trường hợp Thạch Lam
và Nhất Linh, vì tôn trọng uy tín của nhà văn, hoặc vì nhà xuất bản Đời
nay, do Tự Lực văn đoàn điều hành, cho nên khi in lại, đã không thay đổi
cách viết. Nhưng sự viết sai của Thạch Lam và Nhất Linh không có ảnh hưởng
đến đại chúng như từ Giông tố của Vũ Trọng Phụng. Giông tố
trong cách viết sai của Vũ Trọng Phụng, đã trở thành "viết đúng" và hầu
như mọi người (trừ một vài học giả), đều viết Giông tố như Vũ
Trọng Phụng đã viết. Và đó chính là cái cân đo lường trọng lượng ngôn
ngữ của một nhà văn trong lòng dân tộc.
Tình trạng lai căng
Ngoài Giông tố, còn hai cụm từ
khác của Vũ Trọng Phụng, đã trở thành thành ngữ, như Em chã!
Em chã! và Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi!
Đó là những chữ khởi đi từ
tác phẩm Số đỏ, để trở thành những thành ngữ bình dân nhất,
mà người Việt dù có đọc Vũ Trọng Phụng hay không, không ai là không
biết, không ai không nghe nói, hoặc không dùng đến một lần trong đời
sống hàng ngày.
Đây là hiện tượng hiếm có
trong lịch sử ngôn ngữ: Nhà văn tạo ra một chữ hay một câu, rồi câu hay
chữ đó được toàn thể dân tộc sử dụng như một danh từ chung hay một thành
ngữ. Đó cũng là trường hợp của Tú Bà, Sở Khanh, những tên riêng trong
truyện Kiều, nhờ ngòi bút Nguyễn Du, biến thành danh từ chung tú bà,
sở khanh trong tiếng Việt.
Nguyễn Du đã bất tử hoá và
phổ quát hoá hình ảnh Tú Bà thành hình ảnh các mụ tú bà trên đời,
qua hai câu thơ:
Thoắt trông nhờn nhợt màu
da.
Ăn gì to lớn đẫy đà làm
sao
Và Nguyễn Du cũng đã khắc
họa hình ảnh các gã sở khanh muôn thủa qua câu:
Mày râu nhẵn nhụi áo quần
bảnh bao.
Vũ Trọng Phụng không dùng phương
pháp của Nguyễn Du, nghiã là ông không bất tử hoá một chân dung nhân
vật, mà ông bất tử hoá và phổ quát hoá một thái độ con người,
qua sự sáng tạo ngôn ngữ: đó là trường hợp những cụm từ Em chã! Em
chã! và Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi! trở thành những cụm từ
hóm hỉnh, sâu sắc, đầy ẩn nghĩa, có thể áp dụng trong nhiều hoàn cảnh,
và chúng đã trở nên những thành ngữ trong tiếng Việt.
Em chã! em chã!
thoát thai từ em chả! em chả! và "em chả em chả", là sự rút ngắn
của "em chả (...) đâu!" với ngụ ý: "Em chả thèm đâu! Em chả chơi đâu!
Em chả ăn đâu!"... một câu nói diễn tả thái độ ngúng nguẩy, nửa nạc nửa
mỡ, của một cô con gái dậy thì, nũng nịu, được chiều, hư, vòi, ỡm ờ, nói
vậy mà không phải vậy.
Nhưng dấu hỏi ở em chả
được Vũ Trọng Phụng biến thành dấu ngã trong em chã, không phải
vì họ Vũ viết sai (ông là người Bắc không thể nhầm hỏi với ngã như người
Trung và Nam) mà do ông cố ý viết em chả thành em chã.
Sự viết sái
cố ý này có nghiã gì?
- Nó đồng nghiã và củng cố
tình trạng lai căng trong toàn bộ tác phẩm Số đỏ:
con người lai căng, ăn nói lai căng, cư xử lai căng, cái gì cũng sái
đi một chút. Lai căng là tình trạng học đòi bắt chước không đúng
kiểu, làm sái đi. Hành động lai căng trong một xã hội lai căng, nửa mùa,
không cái gì ra cái gì cả. Vũ Trọng Phụng đã vẽ nên một xã hội lai căng
em chã em chã! trong tiểu thuyết Số đỏ, trên nguồn cội chữ
nghiã.
Những chữ em chã em chã
này được Vũ Trọng Phụng đưa vào miệng cậu Phước, con trai của bà Phó Đoan,
một bà me Tây nạ dòng có hình dáng tú bà. Như thế, họ Vũ không chỉ dừng
lại ở địa hạt ngôn ngữ, mà còn đi sâu vào thực thể con người.
Cậu Phước là một hiện tượng
lai căng thánh thể, tức là con của người (bà Phó Đoan) và
thánh (tuy chuyện cầu tự chỉ là chuyện tầm phào, bà Phó có đi cầu nhưng
không thấy thánh giáng lâm), đẻ ra Cậu với những lời thánh "em chã em
chã". Vậy Cậu là một thực thể nửa người nửa thánh, Cậu là hiện tượng đồng
cô bóng cậu, hiện tượng lai căng bình dân nhất và có hồn dân tộc nhất mà
Vũ Trọng Phụng đã tạo ra, qua những chữ em chã
em chã!
Người Việt, qua hình tượng
bình dân này, đã nhận ngay ra mình, đã nhìn thấy phần cá tính thích sự
lai căng của dân tộc mình, vì thế mà ngôn ngữ Vũ Trọng Phụng đã có khả
năng chiếm độc quyền thị trường chữ nghiã, bởi họ Vũ đã nói lên được một
phần dân tộc tính của người mình qua ngôn ngữ. Chân dung người mẹ của
Cậu: bà Phó Đoan cựu me Tây giàu có, xác định thêm một lần nữa tích chất
lai căng này: "với con chó Tây trong cánh tay, với hai con mắt mơ
màng nhìn lên chiếc quạt, bà Phó Đoan có vẻ là linh hồn nước Việt Nam
trên đường tiến hoá và giải phóng" (trang 320).
Số đỏ,
châm biếm các hình thức cầu tự nửa thánh
nửa người, không những đã nhái lại tất cả những sự thánh hoá con người
mà còn trình bầy con người bị thánh hoá như một sản phẩm lai căng từ
tinh thần đến thể xác.
Tính chất lai căng đi
từ "nội dung" con người, phát ra đến ngôn ngữ, văn hoá, văn minh. "Nội
dung" ấy thể hiện trên nhân vật chính, qua sự lai căng gốc rễ từ chân tơ
kẽ tóc: Xuân tóc đỏ.
Xuân tóc đỏ, một hình
thức lai căng điển hình: Bởi người Việt nói
riêng hoặc người da vàng nói chung, xưa nay tóc không đỏ. Xuân giải
thích về mái tóc đỏ của mình: "Mẹ kiếp! Chứ xưa nay có mua mũ bao giờ
mà tóc chả đỏ!" (Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, trang 266).
Một thứ giải thích tầm phào,
lấy lệ. Thật ra Xuân chính là hiện tượng lai căng lộ liễu nhất và sớm nhất,
ngay từ năm 1936, Vũ Trọng Phụng đã nhìn thấy, đã mô tả, khi hiện tượng
này chưa xuất hiện ở Việt nam. Đến ngày nay, hiện tượng tóc đỏ trở thành
phổ biến, không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn cầu.
Tóm lại những hiện tượng lai
căng mà Vũ Trọng Phụng mô tả trong Số đỏ, hơn 70 năm trước, đã
đạt tới trình độ phổ quát, toàn diện, qua các mái đầu tóc đỏ, các đôi
mắt xanh, của tuổi trẻ Đại Hàn, Nhật Bổn, của các siêu sao như Michael
Jackson không những đã kéo tóc cho thẳng, mà còn đổi cả màu da, sắc mặt,
như thay quần đổi áo.
Năm 1936, Vũ Trọng Phụng đã
xây dựng nên Xuân Tóc Đỏ như một hiện tượng Âu hoá đầu tiên, mà
người Á Châu tìm đến, như một sự lột xác, như một sự xoá bỏ căn cước,
xoá bỏ bản thể của chính mình. Hiện nay, hiện tượng Âu hoá này, đã được
toàn cầu hoá. Sự lai căng trở thành một tiến trình văn minh toàn cầu, ở
chừng mức vĩ mô, tạo ra những nghịch cảnh không sao tẩy xóa được.
Số đỏ nhại ai?
Số đỏ
được xây dựng theo thể chương hồi, mỗi chương vừa như một sketch (kịch
ngắn) độc lập, lại vừa như một giai đoạn phiêu lưu. Chẳng biết Vũ Trọng
Phụng có đọc Rabelais hay không, nhưng cách hài hước phóng đại của ông
đi từ ngôn ngữ để xây dựng nhân vật, có gì rất gần với Rabelais.
Số đỏ
ban đầu đã được viết ra để nhại những chương trình Âu hoá xã hội của Tự
Lực văn đoàn, thành phần văn học độc chiếm văn đàn trên nhiều lãnh vực
văn hóa xã hội, và cũng là đối thủ quyết liệt nhất của Vũ Trọng Phụng
trên "mặt trận tư tưởng".
Những mẫu hình họ Vũ đưa ra
để chế giễu, hầu hết nằm trong chương trình Âu hoá, cải cách xã hội của
Tự Lực văn đoàn với các khẩu hiệu: Âu hoá, theo mới, hoàn toàn theo mới
không chút do dự, làm việc xã hội, theo chủ nghiã bình dân, vận động thể
thao, luyện tập thân thể cường tráng, làm nhà ánh sáng, giải phóng phụ
nữ, thiết kế y phục tân thời: kiểu áo Le mur Cát Tường v.v..
Tất cả những khẩu hiệu canh
tân, cải cách của nhóm Tự Lực đều được Vũ Trọng Phụng nhái lại, đưa vào
Số đỏ, thổi phồng và hài hước hoá, thành những hình thức lai căng
nực cười, như vậy làm sao Nhất Linh không nổi giận viết bài (ký tên Nhất
Chi Mai) kết án Vũ Trọng Phụng thậm tệ trên báo Ngày Nay, số 15, ra ngày
21/3/1937.
Những kiệt tác thường khởi
đi từ những lý do rất tầm thường như thế. Số đỏ không phải là tác
phẩm chống thực dân Pháp như nhiều người lầm tưởng. Bởi Vũ Trọng Phụng
khi viết các tác phẩm Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê, năm 1936, ông đang
đặt rất nhiều tin tưởng vào chính phủ Mặt trận bình dân ở Pháp.
Mặt trận bình dân
Mặt trận bình dân
(Front Populaire) ra đời ngày 14/7/1935, là liên minh kết hợp những đảng
phái cánh tả [Đảng Cộng sản với Thorez, đảng xã hội SFIO với Léon Blum,
đảng Liên minh cộng hoà xã hội (Union socialiste républicaine) với
Ramadier và đảng Cấp tiến (Radical) với Daladier]. Liên minh này khởi
sinh từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 1929, và ảnh hưởng sâu
rộng đến nền kinh tế Pháp (cuối 1930 sang năm 1931) đã làm thay đổi cục
diện chính trị Âu châu, phát sinh ra khuynh hướng phát- xít ở Ý, Na-zi ở
Đức và cực hữu ở Pháp.
Mặt trận bình dân
đắc cử và lên cầm quyền tại Pháp từ tháng 6/1936 với Léon Blum, thuộc đảng
Xã hội (đảng Cộng sản tuy ở trong mặt trận nhưng không có mặt trong
chính phủ). Chính phủ Léon Blum (6/36-6/37) thực hiện nhiều định chế cải
cách xã hội: tăng lương cho nhân công, quy định một tuần làm việc 40 giờ
và hàng năm người làm công được nghỉ hè có lương, tổ chức lại ngân hàng,
quốc hữu hoá đường xe lửa, thúc đẩy sinh hoạt thể thao văn hoá... Gặp sự
chống đối từ nhiều phía, Léon Blum từ chức, Chautemps lên thay (6/37 -
3/38), tiếp tục cải cách nhưng đi chậm hơn, Léon Blum trở lại cầm quyền
trong một tháng (3-4/38) Khi Daladier lên thay, Mặt trận bình dân
coi như chấm dứt nhiệm vụ cầm quyền.
Dù chỉ nắm chính quyền trong
thời gian hai năm, nhưng Mặt trận bình dân đã để lại những
định chế cải cách xã hội lâu dài. Chính quyền Léon Blum, với bộ trưởng
thuộc địa Marius Moutet, đưa ra những bộ luật mới về thuộc điạ, luật lao
động, luật báo chí được mở rộng tự do, quyền đình công bãi thị, ân xá
chính trị phạm... tạo những hy vọng tự do và công bằng pháp lý cho người
dân thuộc điạ.
Những nhà văn, nhà báo thời
đó, từ Hoàng Đạo đến Vũ Trọng Phụng, đều nhìn thấy ở Chính phủ bình
dân một hy vọng lớn trong chính sách cải cách thuộc địa của người
Pháp.
Phần lớn các tác phẩm quan
trọng của Vũ Trọng Phụng đều viết và in trong thời gian Mặt trận bình
dân lên cầm quyền và đo đó, thái dộ của ông đối với chính phủ
bình dân nói riêng là một thái độ ôn hoà cộng tác hơn là chống đối.
Vì vậy khi nhấn mạnh về sự chống đối thực dân trong tác phẩm Vũ Trọng
Phụng là một xác định đi ra ngoài thực tế văn bản của Vũ Trọng Phụng.
Tính chất lưu manh
Hầu hết những người viết về
Số đỏ, đều coi Xuân Tóc Đỏ, như một tay lưu manh, chó nhẩy bàn độc,
bất lương, là con đẻ của chế độ thuộc địa, v.v...
Rất lầm. Không phải thế.
Xuân Tóc Đỏ, xuất thân là một đứa bé lang thang, ma cà bông, cò bơ cò
bất, bán thuốc ho bà lang trọc, nhặt ban trên sân quần vợt, thật đấy, nhưng
nó không hề làm nên một tội ác nào có thể so sánh với tội ác của đại gia
đình quyền quý của cụ Cố Hồng, tổ chức giết bố (cụ Tổ) để chiếm lĩnh gia
tài. Xuân Tóc Đỏ bước lên nấc thang danh vọng, không phải vì nó biết lừa
lọc, man trá, mà chính vì cả cái gia đình quý phái ấy đã lợi dụng nó để
làm những chuyện bất chính. "Ấy thế là Xuân Tóc Đỏ bắt đầu dự vào
cuộc cải cách xã hội" (trang 303).
Trước tiên ông Văn Minh, con
trai cụ cố Hồng, muốn làm giàu, vì biết nó mồm mép giỏi giao cho nó
trách nhiệm làm văng-đơ, bán quần áo, trong collection mode của họ.
"Đây...Đây... Tiệm may
chúng tôi có rất nhiều kiểu, toàn do những sinh viên mỹ thuật có danh tiếng
chế tạo ra cả. Đây, bà cứ xem những biển đề ở tượng, là rõ nghiã lý của
từng bộ y phục một. Đây là bộ Lời hứa, nghiã là để cho thiếu nữ
nào mặc bộ ấy có thể như hứa với bạn lòng một cuộc hẹn hò vậy. Đây là bộ
Chiếm lòng. Mặc bộ ấy thì ta đã nắm vận mệnh bọn nam nhi trong
tay ta. Đây là bộ Ngây thơ, đây là bộ Dậy thì, toàn cho
con gái mới nhớn. Từ đây vào là của các bà thiếu phụ, các bậc nội tướng
rồi... Thưa bà, đây là bộ Nữ quyền, của người đàn bà lúc nào cũng
được chồng khiếp sợ. Còn đây là bộ Kiên trinh, cho những bà quả
phụ nhất quyết ở vậy thờ chồng, và đây là bộ Lưỡng lự, cho những
đàn bà góa chồng, mà không biết là nên thủ tiết hay là thôi." (trang
298-299)
Và Xuân bắt đầu lẩm nhẩm học
thuộc lòng cả bài, để nói với khách. Nhưng trong lòng nó không mấy phục:
"Mẹ kiếp! Quần với chả áo!
- Cái này là cái gì? À Lời hứa!... Thắt đáy, nở ngực, nở đít... phải phải!
Thắt đáy nở ngực, nở đít là Lời hứa! Hở ngực, hở tay, hở đùi là Chinh
phục! Hở ngực, hở đùi là Chinh phục! Hở đến nách và hở nửa vú là Ngây
thơ! (trang 307).
Quang cảnh này có thể xẩy ra
trong bất cứ hậu trường nhà thiết kế mốt nào, ngày hôm nay.
Thấy nó được việc, gia đình
Văn Minh muốn nhờ tay Xuân giết cụ Cố, vì biết nó mù tịt về y học, nên
đã tâng nó lên hàng bác sĩ, đúng ý cụ cố Hồng đang muốn tìm một tay bác
sĩ lang băm để giết ông bố già cứ sống dai mãi, mà không chịu chết:
" Cụ Hồng gạt phắt đi mà
rằng:
- Ta chỉ cần một ông thầy
thuốc làm bộ, hay cho đơn thuốc mạnh, hoặc là hay khệnh khạng, là đủ
giết nổi cụ via nhà ta rồi" (trang 325).
Tuy Xuân chưa giết xong cụ
Tổ, nhưng cả nhà đã khấp khởi lo chuyện ma chay trước:
" Cụ Hồng lại nhăn mặt
lần thứ mười mà khẽ gắt cũng lần thứ mười rằng:
Biết rồi! Biết rồi, khổ
lắm, nói mãi!
Đã hiểu cái tính ấy, cụ
bà cứ thản nhiên nói tiếp:
-Ấy thế rồi, ta cứ lo
toan trước việc ma chay đi mà thôi.
- Biết rồi! Khổ lắm! Nói
mãi!
-Tôi thì tôi nên theo cả
lối cổ và lối mới, nghiã là cứ minh tinh, nhà táng, kèn tàu, kiệu bát
cống, và rõ nhiều câu đối. Nếu chúng nó muốn thì chúng nó cứ đi thuê kén
bú rích Tây đi, càng hay. Nhưng mà không thể vì cái thích của chúng mà
bỏ đi cái thích của tôi được.
-Biết rồi! Khổ lắm...nói
mãi!
Đến đây thì cụ bà không
nói gì nữa, ngồi trầm ngâm nghĩ ngợi, làm cho cụ ông phải hỏi ngay:
- Thế sao nữa, hở bà?
(trang 328-329).
Nhưng Xuân Tóc Đỏ lại không
giết, mà cứu cụ Tổ bằng thứ thuốc nước cống lang băm của nó. Xuân trở
thành "ân nhân" bất đắc dĩ của gia đình cụ cố Hồng. Cô Tuyết mê nó.
Muốn em gái mình lấy người
danh giá, nên ông Văn Minh đã "tạo điều kiện" cho Xuân thành quán quân
quần vợt, rồi Xuân ra tay "cứu quốc", chẳng bao lâu nó trở thành "vĩ
nhân"...
Lịch sử leo thang danh vọng
của Xuân Tóc Đỏ chính là tiến trình leo thang của những nhân vật chóp
bu, trong bất cứ xã hội kim tiền, tham nhũng nào. Những hình thái lai căng
trong Số đỏ phản ảnh những hình thái đua đòi, chạy theo cái mới,
tân tiến nửa mùa, xoá bỏ căn cước văn hoá của chính mình. Lai căng là
hình thức sao chép, gán ép hai thực thể không cân xứng, không phù hợp,
không nghệ thuật, vô văn hoá.
Toàn bộ tác phẩm toả ra một
thứ ngôn ngữ lai căng nửa Pháp nửa Việt "Dè... đơ...dà ... múa". Một "sân
quần" trong ngày khánh thành với những cái quần phất phới mà con ở của
bà Phó Đoan đem phơi, vì nó tưởng đâu sân quần là sân... phơi quần. Một
xã hội loạn xà ngầu như kèn Ta, kèn Tây bú-rích, kèn Tàu điệu Bát cống,
đua nhau lên tiếng trong đám ma cụ Tổ. Những tập tục lai căng, những mốt
lai căng, những cách sống lai căng, những cải tiến lai căng.
Cuộc phiêu lưu không tiền
khoáng hậu của Xuân Tóc Đỏ, một tay ma cà bông, vô học, lên tới đỉnh cao
của danh vọng, vô địch yêu nước, trở thành vĩ nhân, chẳng qua chỉ là
cuộc phiêu lưu của sự bất tài, vô học, được bọn con buôn chính trị thượng
lên chóp đỉnh, trong một xã hội kim tiền, tham nhũng, mà dân tộc ta đã
trải nhiều kinh nghiệm nhãn tiền.
Lời tri ân thính giả
Quý vị vừa nghe chương trình
văn học nghệ thuật cuối cùng, sau 19 năm hiện diện trên làn sóng RFI
Việt ngữ. Trước khi chia tay, Thụy Khuê xin có đôi lời cùng quý vị.
Chương trình văn học nghệ
thuật của đài RFI ra đời năm 1990, đã xây dựng từng bước trên sự ủng hộ
nhiệt thành của quý vị thính giả và sự hiện diện quý báu của một tầng
lớp trí thức văn nghệ sĩ hàng đầu mà ngày nay nhiều vị đã qua đời.
Trước hết, Thụy Khuê xin gửi
lời tri ân đến các văn nghệ sĩ trí thức mà sự góp mặt quý báu đã hình
thành nên chương trình văn học RFI trong 19 năm qua.
Lời tưởng niệm chân thành
đến những người đã khuất: Hoàng Xuân Hãn, Tạ Trọng Hiệp, Lê Phổ, Vũ Cao
Đàm, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Trần Độ, Mai Thảo, Thái Tuấn, Trịnh Công
Sơn.
Hoàng Xuân Hãn đã kể lại
những khúc mắc của lịch sử cận đại Pháp Việt và con đường nghiên cứu
khoa học của vị học giả hàng đầu của Việt Nam.
Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt,
Hoàng Cầm, Trần Duy đã vẽ lại toàn bộ tiến trình hình thành và phát
triển của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, phong trào tranh đấu cho tự do
tư tưởng của văn nghệ sĩ trí thức, lớn nhất trong thế kỷ XX.
Các hoạ sĩ tiên phong Lê Phổ,
Vũ Cao Đàm, đã kể lại lịch sử hội họa Việt nam từ những ngày đầu tiên
thành lập trường Cao đẳng Mỹ Thuật Đông Dương.
Trần Độ đã xướng lên tiếng
nói uy tín nhất, tiêu biểu cho cao trào đấu tranh cho dân chủ và tự do
tư tưởng hiện đại.
Tiếng nói và nhân chứng của
các vị đã dựng lại cả một quá khứ sống động, đã khơi lại những điểm khuất
đằng sau lịch sử, đã vẽ nên bộ mặt dân tộc toàn diện hơn, về văn hoá,
chính trị và lịch sử, mà hiện tình của đất nước chưa cho phép chúng ta
đi vào.
Lời cảm tạ chân thành đến
các văn nghệ sĩ hàng đầu: Phạm Duy, Cung Tiến, Thái Thanh, Kiều Chinh...
các họa sĩ Lê Bá Đảng, Phạm Tăng, Võ Đình, Đinh Cường, ... các nhà biên
khảo Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Huệ Chi, Ngô Đức Thọ ... các nhà văn Doãn
Quốc Sỹ, Cung Trầm Tưởng, Nhật Tiến, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Mộng Giác,
Hoàng Hưng, Võ Văn Trực... và toàn thể nhiều lớp nhà văn, nhà thơ, nhà
biên khảo, đã đóng góp tiếng nói trên đài trong suốt 19 năm qua mà chúng
tôi không thể nêu hết danh tính.
Chúng tôi cũng không quên sự
đóng góp quý giá thường xuyên của các nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh, Lại
Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn, Phạm Xuân Nguyên... nhờ sự nhận định và phân
tích của các anh mà chương trình văn học nghệ thuật của đài đã có được
cái nhìn đa dạng về mọi vấn đề.
Lời cảm ơn và thân ái chia
tay đến Bảo Thạch và các bạn trong ban Việt Ngữ: Thanh Thủy, Ánh Nguyệt,
Mai Vân, Thanh Hà, Trọng Nghiã, Thanh Phương, Tú Anh, Đức Tâm, Tuấn
Thảo, Đức Bình, Anh Vũ; riêng Thanh Xuân và Simone đã lo lắng cho phần
kỹ thuật chương trình từ 19 năm qua.
Bảo Thạch Bạch Thái Quốc,
trưởng ban Việt Ngữ, ngay từ những ngày đầu cộng tác, đã xác nhận chỗ đứng
của Văn học nghệ thuật trong một chương trình phát thanh đại
chúng, và đã dành riêng cho văn hoá, nói chung, một vị trí quan trọng
trên làn sóng phát thanh. Với toàn thể ban Việt ngữ, Thụy Khuê đã tìm
thấy một không khí gia đình, một tinh thần tương trợ trong công việc và
sự cầu tiến hiếm quý để mỗi ngày một chuyên nghiệp hơn.
Lời tri ân cuối cùng, Thụy
Khuê xin gửi đến quý vị, những thính giả trung thành của chương trình
Việt ngữ nói chung và chương trình Văn học nghệ thuật nói riêng,
ở khắp nơi, từ những vùng xa xôi hẻo lánh trên đất nước cũng như ở tận
cùng thế giới nam bán cầu châu Úc.
Phê bình văn học, tiên thiên,
không phải là một chương trình phát thanh dành cho đại chúng, nhưng nhờ
ở sự ủng hộ nhiệt thành của quý vị mà nó đã trở thành đại chúng.
Quý vị đã làm sống lại một
truyền thống lâu đời của dân tộc, có trong những câu ca dao truyền khẩu
tự ngàn xưa, đó là truyền thống yêu tiếng Việt. Mà đã yêu thương thì tất
phải tìm hiểu ngôn ngữ văn chương Việt. Tình yêu ấy đã hiện lên, mỗi khi
quý vị lắng nghe âm thanh tiếng Việt qua làn sóng, dù là những thông tin
hàng ngày, hay văn học, đôi khi rung động với một lời thơ hay, một áng
văn độc đáo, một nghệ thuật phi thường... Và đó là món quà tinh thần lớn
nhất mà Thụy Khuê và các bạn trong ban Việt ngữ đã tiếp nhận được. Xin
gửi đến quý vị niềm tri ân vô bờ bến.
© Copyright Thụy Khuê 2009
trích từ nguồn ( http://thuykhue.free.fr/stt/v/VuTrongPhung3.html)
CAROLINETHANHHUONG: Nghe đọc truyện ngắn audio book, nhiều tác giả.
Xin
lưu ý với các bạn hữu Blogger, Website nào muốn trích đăng bài
sưu tầm hay bài viết, thơ, nhạc của groupe chúng tôi về Blog,
WordPress, Google Plus, của các anh chị, xin vui lòng đợi
1 tuần sau khi bài trong Blog của chúng tôi đã đưa ra public.
Riêng phần tiếp chuyển, thì xin cám ơn quý anh chị đã giới thiệu dùm đến người thân quen.
Caroline Thanh Hương
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire