Kính gửi quý anh chị bài sưu tầm về Những Gánh Hát Xưa.
Bên cạnh đó, quý anh chị có thể thưởng thức một phần chương trình cổ nhạc của chú Huỳnh Chiếu Đẳng sưu tầm.
Nơi đây, tôi chỉ post những bài có vần K, vì trước đây đã có post những bài có vần trước đó.
Quý anh chị có thể tìm lại xem những articles đã post trước đây khi click vào link bên dưới.
Caroline Thanh Hương
Caroline Thanh Hương: Chương trình cổ nhạc Huỳnh Chiêu Đẳng sưu tầm vần A.
Caroline Thanh Hương: Nghe thử thấy hay hay, chương trình cổ nhạc Huỳnh Chiếu Đẳng sưu tầm vần B (2) còn tiếp
Caroline Thanh Hương: Có ai thích nghe cổ nhạc không? chương trình cổ nhạc Huỳnh Chiếu Đẳng sưu tầm vầng D, E, G,
Những gánh hát xưa
Quê tôi thời ấy (1955) thường dùng tứ
“Gánh hát” thay vì “Đoàn hát” như bây giờ. Mỗi lần đi lưu diễn, ngoài cỗ
xe bò để chở phông màn và gia đình ông Bầu, còn các nhân viên, đào kép
đều phải tự gồng gánh hành lý của mình lục đục theo sau; có phải vì vậy
mà gọi là “Gánh hát” chăng?
Sau năm 1954, nguồn giải trí tinh thần
của bà con chẳng có gì. Muốn đọc báo thì phải nhờ đò dọc từ quận (huyện)
ngày một chuyến lên tận “tỉnh” mua giùm, nhưng hầu hết người dân ký tên
đều bằng dấu thập nguệch ngoạc thì mấy ai đọc được báo? Radio thì cả
làng chưa ai có, nên nguồn giải trí duy nhất là những gánh hát mà lâu
lâu mới đến một lần.
Gánh hát xưa có hai dạng. Dạng thứ nhất
là hát bội. Với hát bội, dù gánh cũng có “tên” đàng hoàng nhưng không ai
gọi cả; mà họ chỉ gọi tên ông Bầu của gánh đó mà thôi: Gánh bầu Bời,
gánh bầu Trình… Dạng thứ hai là cải lương, với cải lương, không biết sao
người ta lại gọi “tên” gánh hát đó mà không gọi tên ông Bầu: Gánh Kiếp
Bướm, gánh Điền Viên… Có thể kể thêm một dạng nữa là “hát bội pha cải
lương”, nhưng dạng này khán giả quê tôi không ưa chuộng; vì “Thà hát bội
ra hát bội, cải lương ra cải lương chứ vừa hát bội vừa cải lương nghe
nó tréo ngoe!”. Các cụ bảo thế!
Dù với dạng nào, tùy theo gánh hát nhỏ,
lớn mà chọn nhà lồng chợ hay đình làng để trình diễn. Khi vừa tới điểm;
một bộ phận lo việc thiết lập sân khấu, phông màn; và lấy vải thô bao
quanh nhà lồng (hay đình làng) để phân cách không gian “rạp hát” và bên
ngoài để tiện việc kiểm soát, bán vé.
Bộ phận thứ hai không kém quan trọng là
bộ phân “rao bảng”. “Rao bảng” nôm na có nghĩa là báo cho người trong
làng biết hôm nay có gánh hát đến và đêm nay diễn tuồng gi. Bộ phận nầy
mướn một cỗ xe ngựa. Hai bên hông và sau xe có vẽ hình ấn tượng nhất của
nội dung tuồng hát diễn đêm đó. Trên xe để môt trống chầu, trên đó có
một hay hai người đánh liên tục từng ba dùi một (Thùng thùng! Thùng!)
suốt từ đầu làng đến cuối làng. Vì tốc độ ngựa chạy chậm nên sau xe là
lũ con nít chúng tôi tự nguyện chạy theo… chơi! Với gánh hát nhỏ như bầu
Bời, bầu Trình, thì chỉ cần để trống trước cửa “rạp”. Lũ trẻ tranh nhau
mà đánh (cũng từng ba dùi một). Âu cũng là cách tiết kiệm chi phí vậy!
Mỗi lần gánh hát về làng thì y như ngày
hội. Coi hát cũng nhiều mà đi chơi cũng không ít. Một trong những động
lực này là nam nữ được hẹn hò nhau “hợp pháp”! Đội quân bán hàng theo
thời vụ hoạt động cũng xôm trò, dù chỉ là mía chặt khúc, đậu phộng nấu…,
mà nước đá si rô, nước đá nhận là món hàng đặc biệt nhất, vì ngày
thường không hề có, ngay cả lúc tiệc tùng.
Với những gánh cải lương thì có bán vé
hẳn hoi nhưng với hát bội thì không, mà là “bà bầu” và vài người thân
tín đứng ở cửa thu tiền. Giá cũng không nhất định. Những đêm đầu người
coi đông thì người lớn năm đồng, trẻ em ba đồng, những ngày cuối giá có
hạ hơn. Chỉ vì không bán vé mà thường xuyên xảy ra việc kèo cưa “trả
giá” khá buồn cười: “Một đứa ba đồng, hai đứa “ăn” năm đồng thôi, được
không?”. Lại có nhiều rự lợi dụng lúc chen lấn mà lẻn vào không trả
tiền; đôi khi cũng được trót lọt, nhưng phần đông bị… nắm lỗ tai, nắm
tóc kéo ra! Tương tợ, cũng có rự giở vải lén chui vào, và hậu quả cũng
giống trường hợp trên!
Đêm cuối cùng, đại hạ giá, có khi chỉ
còn phân nửa! Thế mà cũng chẳng ai coi, vì không ai có tiền mà coi hoài,
hơn nữa việc đồng áng họ cần phải được nghỉ ngơi dưỡng sức. Khi đó
trong “rạp” toàn là khán giả nhí mà cũng chẳng được bao nhiêu; mà chúng
vào coi là coi đào kép, trang phục, đánh thương đánh kiếm, chứ hát bội
thường “hát chữ nho” thì có hiểu gì đâu mà coi? Có hiểu chăng là một vài
câu thông dụng: “Tróc mã đề thương, ứ ư ứ ư…” hay những câu tên quân
trình báo: “ Cấp báo! Cấp báo!” - “Điều chi?” - “Dạ, chí nguy thậm chí
nguy! Giặc Hung Nô vượt khỏi biên thùy. Ta, dũng tướng thảy đều tử
trận…”, “Lui! Thôi rồi!… “ (ò e ó e)
Không có gánh nào có ghế cho khán giả
ngồi; muốn ngồi ghế thì phải mang theo! Ánh sáng thì nhờ vào cái đèn
măng sông treo một bên sân khấu. Với gánh cải lương thì “sang” hơn, họ
có máy đèn riêng, để đến lúc hai đối thủ đánh phép: “Hô biến!”, đèn vụt
tắt, lập tức bên sau phông màn trắng, khán giả thấy các bảo bối đấu nhau
quyết liệt. Đây là màn ăn khách nhứt! Ngoài ra, nhờ có máy đèn mà có
cảnh “phực đèn màu” sau khi đào kép xuống “hò” (câu 1, câu 5), làm giọng
ca thêm muồi, thêm lâm ly tình tứ hơn, đã khiến nhiều tiếng vỗ tay,
nhiều tiếng tắc lưỡi ngợi khen.
Về dàn nhạc tùy theo cải lương hay hát
bội, mà có đờn nguyệt, đờn gáo, đờn cò, ghi ta, và trống. Mọi thứ cũ
mèm, được điều khiển bởi quý “thầy đờn”… “hình mai vóc liễu”, ốm tỏng ốm
teo!
Về tuồng tích thì thường diễn trích đoạn
của các truyện Tàu, như “Lưu Kim Đính giải giá Thọ Châu”, “Tiết Đinh
San cầu Phàn Lê Huê”, “Tôn Tẩn hạ san”, hoặc những chuyện cổ tích như
“Thạch Sanh Lý Thông”, “Phạm Công Cúc Hoa”...
Về “kịch bản” (với hát bội) dường như có
“khuôn mẫu” sẵn cho đào kép, nghĩa là có những bài bản riêng cho mọi
tình huống. Như khi hai tướng xông trận thì hát thế nào, khi vua lâm
triều thì phải hát ra sao... thêm vào đó chút “hát cương” tùy theo tay
nghề của đào kép. Ông Bầu vừa đạo diễn, vừa nhắc tuồng.
Có nhiều khán giả nhí khoái vào hậu
trường để coi đào kép sắm tuồng hơn coi trên sân khấu. Chúng thường được
dễ dãi nếu không phá phách hay ăn ổi chín, vì “sợ tổ thích mùi thơm của
ổi mà bỏ đi”. Các anh chị đào kép bảo vậy!
Nếu nghệ sĩ ngày nay là một trong những
nghề có thu nhập cao nhứt, thì nghệ sĩ hát bội (và cả cải lương gánh
nhỏ) thời đó có thu nhập rất ít oi, nói khác đi, nếu chỉ dựa vào thù lao
diễn xuất thì không thế nào đủ sống. Đó là nói với đào chánh, kép
chánh; còn “kép cơm”, tức những người đóng vai lính, quân hầu thì càng
thê thảm, bởi lâu lâu mới được chút ít tiền bồi dưỡng để… hớt tóc mà
thôi!
Gánh hát thường về làng vào tháng mười
một âm lịch cho đến trước khi sắp đổ mưa, vì thời gian nầy dân làng có
thu nhập (chủ yếu là lúa), hoặc rảnh rang nên đến coi đông, nhưng rồi
nhiều lắm gánh hát cũng lưu lại chỉ một tuần, thì rạp hát vắng hoe. Gánh
không hát nữa, nhưng cũng chẳng dọn đi, ông Bầu cho ở lại để đào kép
kiếm việc làm. Ai mướn gì làm nấy, như gặt lúa, vác lúa; với những người
yếu sức thì đi mót, đi câu, bắt cua lưới cá. Đào kép đều từ nông dân
xuất thân nên những việc làm đó họ chẳng thua gì dân bản xứ.
Với hát bội, không có thì coi đỡ ghiền
chứ thực tình khán giả cũng không “mặn” lắm. Cho nên từ khi cải lương về
làng, hát bội không còn chỗ đứng nữa. Gánh bầu Bời và bầu Trình năm xưa
thỉnh thoảng lại đến, rồi một vài đêm lại gồng gánh buồn bã lên đường
để rồi không bao giờ trở lại! Thấy tình cảnh này, không biết ai trong
làng tôi đã ứng khẩu và truyền miệng câu “thơ” ác nhơn: “Bầu Trình hát
dở đừng lo/ Sang năm hát khá được đi xe bò/ Bầu Bời hát dở đừng rầu/
Sang năm hát khá được ngồi xe trâu”.
Với gánh cải lương, thu nhập có khá hơn
nhiều. Buổi trưa rỗi việc, mấy chú bác ở Xóm Ngã Tư, mời đào kép chánh
và một hay vài ông “thầy đờn” đến nhà “làm” mấy bài vọng cổ hay mấy lớp
xàng xê quanh bàn rượu, bữa cơm, đơn sơ nhưng thắm tình… nghệ sĩ! Tất
nhiên trước khi ra về, anh chị đào kép cũng được chút thù lao khá hậu
hỉ.
Tuồng tích cũng không khác gì hát bội;
nhưng nhờ trang phục bắt mắt và văn chương bóng bẩy làm người coi thích
thú; cũng như diễn xuất “thực” hơn, lời ca muồi hơn, nên có nhiều đoạn
đã làm người xem xúc động, rơi nước mắt, và không ngần ngại kẹp tiền vào
quạt giấy phóng lên sân khấu! (Đây là hình thức thưởng tiền ở quê tôi).
Và đào kép cũng không ngừng khai thác khía cạnh này: Mở đầu tuồng Phạm
Công Cúc Hoa là màn Phạm Công cõng mẹ mù lòa đi ăn xin. Hai mẹ con quần
áo rách bươm, Phạm Công vẻ mặt thểu não, tay cầm thau nhôm móp méo, cõng
mẹ chầm chậm quanh sân khấu; ca điệu Hoài Tình: “Bà con cô bác giùm
thương/ bố thí cho tôi một chén cơm thừa/… (nói dậm: Mẹ ! Me! Mẹ rán
nhịn đói chút xíu nữa nghe mẹ! Chừng nào bà con cho cơm, con đút mẹ ăn
nghe mẹ!…). Thế là nước mắt khán giả tuôn ra, tiếng hỉ mũi rồn rột,
giọng nghẹn ngào: “Tui cho tiền nè!” . Và quạt giấy kẹp tiền “bay” lên
tới tấp, người không có quạt thì tự đem lên. Một ông “thầy đờn” thấy vậy
nói với Phạm Công: “Được khá đó nghen mậy! Tiếp lớp 2 nghe!” (tức bảo
ca lại lần nữa); nhưng Phạm Công ca tiếp tới lớp 4, khi mà khán giả lơi
cho tiền mới thôi! Hồi còn trẻ con, chúng tôi chuyên “coi hát” trong hậu
trường nên nghe thấy rõ cảnh này.
Một tuồng có hai màn, hết màn một là
nghỉ giải lao. Trước khi qua màn hai thì một người đứng sau màn (thường
là ông bầu hoặc anh kép chánh) nói lời tri ân khán giả và giới thiệu vở
tuồng ngày mai với những lời lưu loát và không kém văn hoa. Gần cuối màn
hai thì gánh hát cho “thả dàn”, tức mở cửa ai muốn coi cứ vào coi, việc
làm nấy cũng không ngoài mục đích quảng cáo lời ca điệu hát, trang
phục, diễn viên của mình.
Đến năm 1960, “gánh nhà” bầu Trình, bầu
Bời nghe nói đã “rã gánh”, đào kép “về quê cắm câu”; chỉ tụ tập lại hát
trong những ngày lễ cúng đình thần. Những gánh cải lương cũng biệt tích,
trong lúc ở thập niên này (60-70) là thời vàng son của cải lương: Ở Sài
gòn có nhiều đoàn hát lớn như Kim Chung, Thanh Minh, Hương Mùa Thu…,
xuất hiện nhiều soạn giả lớn với nhiều tuồng hát để đời.
Theo: Kha Tiệm Ly
Xin
lưu ý với các bạn hữu Blogger, Website nào muốn trích đăng bài
sưu tầm hay bài viết, thơ, nhạc của groupe chúng tôi về Blog,
WordPress, Google Plus, của các anh chị, xin vui lòng đợi
1 tuần sau khi bài trong Blog của chúng tôi đã đưa ra public.
Riêng phần tiếp chuyển, thì xin cám ơn quý anh chị đã giới thiệu dùm đến người thân quen.
Caroline Thanh Hương
Phần nghe cổ nhạc vần K trích từ Quán Ven Đường của chú Huỳnh Chiếu Đẳng
Kiem Si
Doi 1.mp3 6361
Kiem Si
Doi 2.mp3 5193
Kiem Si
Doi 3.mp3 6829
Kiem Si
Doi 4.mp3 3791
Kiem Si
Doi.mp3
12791
Kiep
Nao Co Yeu Nhau.mp3 15142
Kieu
Khoc Tu Hai.mp3 1042
Khi Hoa
Anh Dao No.mp3 15037
Khoc
Bang Phi.mp3 1304
Khoi
Lam Chieu.mp3 3610