Phải nghe tiếng hát nức nở , cách diển đạt tuyệt vời, nghe mà cảm ngay được bản nhạc mà chị trình bày vì cách hát mang tiếng hát từ con tim dâng chơ người.
Chân thành cám ơn chị và tất cả quý anh chị đã bỏ công sưu tầm và lưu lại trên net những tình khúc tuyệt vời bất hủ này.
Caroline Thanh Hương
tt tt tt
Nhắc lại chuyện cũ, cũng là lịch sử về gia đình âm nhạc Việt Nam.
TRƯỜNG CA-TÌNH CA PHẠM DUY & THÁI THANH
Nhạc sĩ Phạm Duy (5 tháng 10 năm 1921 – 27 tháng 1 năm 2013), tên thật Phạm Duy Cẩn,
là một nhạc sĩ, ca sĩ, nhà nghiên cứu nhạc. Ông được coi như một trong
những nhạc sĩ lớn nhất của nền Tân Nhạc Việt Nam với lượng sáng tác đồ
sộ cũng như đa dạng về thể loại, trong đó có rất nhiều ca khúc trở nên
kinh điển và quen thuộc với người Việt. Nhạc của ông thường kết hợp
những yếu tố của âm nhạc cổ truyền Việt Nam với các trào lưu, phong cách
mới, tạo nên nhiều tác phẩm có tính đột phá, giàu ảnh hưởng đối với các
nhạc sĩ thuộc nhiều thế hệ.
Ngoài sáng tác và biểu diễn, ông còn có
những công trình khảo cứu về Âm Nhạc Việt Nam có giá trị. Ông từng giữ
chức giáo sư nhạc ngữ tại trường Quốc Gia Âm nhạc Sài Gòn. Với hơn 70
năm sự nghiệp, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử quan trọng của đất nước,
ông được coi là cây đại thụ của nền Âm Nhạc Việt Nam. Tuy vậy bên cạnh
đó, các quan điểm nhìn nhận về ông cũng khác biệt, chủ yếu là do các vấn
đề chính trị.
Khởi đầu sự nghiệp âm nhạc trong gánh hát
Đức Huy với vai trò Phó quản lý và ca sĩ hát lưu động. Từng tham gia
Kháng chiến chống Pháp một thời gian trước khi vào miền Nam để tiếp tục
tự do hoạt động âm nhạc. Phạm Duy là một tên tuổi lớn và đầy ảnh hưởng
tại miền Nam Việt Nam với những hoạt động tích cực dành cho cả âm nhạc
và chính trị, và những hoạt động này còn tiếp diễn sau giai đoạn 1975,
khi ông di tản sang Hoa Kỳ. Vì lý do chính trị, nhạc của ông bị cấm hoàn
toàn tại miền Bắc Việt Nam sau 1954, và toàn Việt Nam sau 1975.
Năm 2005, sau nhiều lần về thăm quê
hương, ông chính thức trở về Việt Nam sống và từ đó, một số ca khúc của
ông mới bắt đầu được phép phổ biến lại. Tính cho tới tháng 1 năm 2014,
có 244 ca khúc của ông được cấp phép lưu hành (trong số đó có 53 ca khúc
ngoại quốc do ông đặt lời Việt), trong số khoảng 1000 sáng tác của ông.
Sinh ra trong một gia đình văn nghiệp,
cha ông là Phạm Duy Tốn thường được coi như là nhà văn xã hội đầu tiên
của nền “Văn Học Mới” đầu thế kỷ 20. Anh của ông là Phạm Duy Khiêm, giáo
sư thạc sĩ, cựu Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Pháp, văn sĩ Pháp Văn, tác
giả những cuốn Légendes des terres sereines, Nam et Sylvie, De Hanoi à
Lacourtine.
Lúc nhỏ, ông là cậu bé hiếu động, tính
tình “văng mạng, bất cần đời”, tuy vậy lại thích diễn kịch, làm trò, và
mê nhạc. Ông biết dùng Guitar, Mandolin để chơi nhạc Tây Âu, bên cạnh đó
còn tiếp thu các nhạc điệu Dân ca miền Bắc, hay những bài ca Huế như
Nam Ai, Nam Bình, Tứ Đại Cảnh… Ngoài nền văn hóa mang tính nhân bản của
Pháp, ông còn được tiếp xúc với văn hóa cổ truyền, qua các tác phẩm của
cha Phạm Duy Tốn, hay cuốn “Tục ngữ phong dao” của người anh họ Nguyễn
Văn Ngọc.
Về học vấn, NS Phạm Duy chỉ có bốn năm
tiểu học và một năm trung học, nhưng những bài học trong các sách Quốc
Văn Giáo Khoa Thư, Luân Lý Giáo Khoa Thư, đã in đậm trong tâm hồn ông
trước khi bước vào xã hội, hình thành cho ông một quan niệm về “đức độ
của con người Việt Nam” mà ông nhấn mạnh là “con người ở nông thôn”, chứ
“không phải ở thành thị”. Ông học vỡ lòng tại trường Hàng Thùng, học
Tiểu học tại trường Hàng Vôi. Tính ông nghịch ngợm, học không giỏi,
thường hay bị phạt. Đến năm 13 tuổi (1934), vào được lớp nhất, ông mới
học giỏi dần, trở thành một trong những học sinh ưu tú của lớp, nhất là
môn đọc thơ tiếng Pháp.
Năm 1936, ông vào học trường Thăng Long,
một trường trọng điểm của thời kỳ kháng chiến. Thầy dạy ông có các nhân
vật nổi tiếng như: Trần Văn Tuyên, Phan Anh, Khuất Duy Tiến. Trong đám
bạn cùng lớp có người sau này trở thành nhà thơ như Quang Dũng. Một năm
học trung học giúp ông hấp thụ thêm những cái hay cái đẹp của nền văn
chương Pháp, của Victor Hugo, André Chenier, Alfred de Vigny, Bernadin
de Saint Pierrre…
Năm 1940, nghe lời bè bạn, ông theo học
dự thính hội họa tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, học thầy Tô
Ngọc Vân, cùng lớp với Bùi Xuân Phái, Võ Lăng… Tuy nhiên ông sớm nhận ra
mình không có niềm đam mê thật sự đối với hội họa. Ông cũng trải qua
nhiều công việc khác như phụ gánh xiếc, thợ sửa radio, coi sóc trang
trại… tại nhiều tỉnh thành, nhưng đều bỏ nghề và dời chỗ ở sau một thời
gian ngắn. Tuy rằng không có nghề nào lâu dài, nhưng việc sống ở nhiều
nơi, trải qua nhiều hoàn cảnh sống khác nhau cũng là những chất liệu
quan trọng giúp ích cho sự nghiệp âm nhạc sau này. Cùng với giai đoạn
lang thang vô định này, ông cũng dần nhận ra niềm đam mê âm nhạc của
mình. Phạm Duy tự mày mò học nhạc cổ điển, rồi tập tành sáng tác. Trong
cuộc đời của mình, ông chưa từng học chính quy một trường lớp âm nhạc
nào.
Năm 1941, ông thành ca sĩ hát tân nhạc
trong gánh hát cải lương Đức Huy – Charlot Miều. Thời kỳ hát rong, Phạm
Duy được gặp gỡ nhiều tên tuổi lớn như thi sĩ Lưu Trọng Lư, nhạc sĩ Lê
Thương, Lê Xuân Ái, Văn Đông… và nhạc sĩ Văn Cao, người sau này trở
thành bạn thân thiết trong đời sống lẫn trong âm nhạc. Thời kỳ này,
ngoài việc cùng Văn Cao la cà các chốn ăn chơi, thì ông cũng giúp đỡ cho
Văn Cao trong việc soạn nhạc, cùng Văn Cao sáng tác các tác phẩm“Bến Xuân”, “Suối Mơ”.
Năm 1942, ông khởi nghiệp sáng tác nhạc với tác phẩm hoàn chỉnh đầu tay là “Cô Hái Mơ”, phổ từ thơ Nguyễn Bính, trong thời kỳ phong trào Tân Nhạc bắt đầu nở rộ.
Năm 1945, xảy ra nạn đói, Phạm Duy rời
nhà cũ đi lang thang nhiều nơi. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, ngày Nhật đảo
chính Pháp, ông cùng hai kép trong gánh hát Đức Huy bị bắt vào tù khi
đang lưu diễn ở Cà Mau . Cũng năm này ông theo kháng chiến, trở thành
cán bộ văn nghệ của Việt Minh và là một trong những nhạc sĩ thành công
nhất lúc đó.
Năm 1949 ông lập gia đình với ca sĩ Thái Hằng tại chiến khu Việt Bắc, người chủ trì của hôn lễ này là tướng Nguyễn Sơn.
Năm 1951, do không phục Việt Minh, ông bỏ
về Hà Nội. Sau khi sinh con đầu lòng Duy Quang, ông đưa gia đình di cư
vào Nam, sinh sống tại Sài Gòn. Cuối năm 1951, bị một số nhạc sĩ ghen tị
tố cáo là có quan hệ với Việt Minh, ông cùng với Lê Thương và Trần Văn
Trạch bị bắt giam ở khám Catinat, Sài Gòn trong 120 ngày.
Năm 1953, ông qua Pháp học dự thính hai
năm về âm nhạc, tại đây ông quen với Trần Văn Khê, người sau này trở
thành Giáo sư. Hai năm sau, ông về Việt Nam thì đất nước đã chia cắt sau
hiệp định Genève. Từ đó ông ở miền Nam tiếp tục sáng tác và biểu diễn
trong “Ban Hợp Ca Thăng Long” cùng với Thái Thanh, Hoài Nam, Hoài Bắc,
Hoài Trung tại phòng trà Đêm Màu Hồng. Thời gian này ông cũng có những
hoạt động trong ngành sân khấu và thông tin đại chúng, như viết nhạc
kịch, viết nhạc cho phim và cộng tác với Đài Phát Thanh Sài Gòn.
Năm 1956, xảy ra vụ ngoại tình giữa ông
và người vợ (ca sĩ Khánh Ngọc) của em vợ (nhạc sĩ Phạm Đình Chương), vụ
việc trở thành một scandal lớn gây xôn xao trên các báo chí Sài Gòn và
cả Hà Nội thời ấy. Đây là một “mối tình cấm”, “cả gan” luôn làm ông
“buồn rầu khi phải nhắc lại” vì đã làm buồn lòng người vợ (ca sĩ Thái
Hằng), người em vợ (nhạc sĩ Phạm Đình Chương), và vì biết rằng “những đổ
vỡ kia không thể nào hàn gắn lại được”. Sau vụ tai tiếng trên, ông
không còn hợp tác với Ban Hợp Ca Thăng Long nữa.
Gia đình ông chuyển đến căn nhà nhỏ ở cư
xá Chu Mạnh Trinh ở ngã tư Phú Nhuận, nơi có nhiều gia đình nghệ sĩ tới
ở, như gia đình Nguyễn Mạnh Côn, Năm Châu, Duyên Anh, Hồ Anh, Anh Ngọc,
Trần Ngọc, Hoàng Nguyên, Minh Trang, Kim Tước. Không còn hợp tác với
bang Thăng Long, Phạm Duy vào làm việc ở Trung Tâm Điện ảnh. Thời gian
này ông hay lui tới quán Chùa (La Pagode), gặp gỡ Vũ Khắc Khoan, Cung
Trầm Tưởng, Võ Đức Diên, Mặc Thu, Tạ Tỵ, Lê Ngộ Châu… Ông được Võ Đức
Diên và các bạn bè giúp đỡ đi một chuyến từ Sài Gòn ra vĩ tuyến 17 để
hoàn thành nốt “Trường Ca Con Đường Cái Quan”.
Thập niên 1960, sau khi Việt Nam Cộng Hoà
được nhiều quốc gia thân Mỹ công nhận, cùng với các bạn nghệ sĩ khác,
Phạm Duy được cử đi Philippins, Nhật Bản,Thái Lan để giới thiệu Văn Nghệ
Việt Nam. Và với ít nhiều kinh nghiệm bang giao, ông thường có mặt
trong những buổi đón tiếp các phái đoàn văn nghệ nước ngoài, như đoàn vũ
trống của Hàn Quốc, đoàn Moral Rearmement của Mỹ… Nhờ đó ông có dịp
trao đổi tài liệu âm nhạc với các văn nghệ sĩ nước ngoài.
Năm 1965, ông tham gia “Phong Trào Du Ca”
với Nguyễn Đức Quang, Giang Châu, Ngô Mạnh Thu… đi nhiều nơi tại miền
Nam Việt Nam để phổ biến các ca khúc nói lên thân phận của tuổi trẻ thời
đó.
Năm 1966, ông được Văn Phòng Giáo Dục Văn
Hóa của Bộ Ngoại Giao Mỹ mời sang quốc gia này, tại đây ông được mời
tham quan các đài truyền hình, nhạc hội, đến ở trong gia đình nghệ sĩ
The Beers Family, Petersburg. Ông được đài Channel 13 với Steve Addiss
và Bill Crofut, mời tham gia chương trình Dân Ca của Pete Seeger, nhạc
sĩ phản chiến số một của Hoa Kỳ. Bốn năm sau ông lại qua Hoa Kỳ lần nữa
để làm cố vấn cho Bộ Thông Tin Hoa Kỳ để “giải độc dư luận Mỹ”. Tại đây
ông mới biết thêm thông tin về vụ Thảm sát Mỹ Lai, và phản ứng của ông
là ca khúc “Kể Chuyện Đi Xa”. Ông cũng hát nhiều ca khúc phản chiến tại các show truyền hình, sân khấu ở Mỹ.
Cuối thập niên 1960, ban nhạc gia đình
“The Dreamers” của các con ông ra đời, ông cùng ban này đi biểu diễn tại
các phòng trà, nhà hàng Sài Gòn. Đây cũng là thời gian băng Cassette
thịnh hành, giúp ông có được nhiều khoản thu nhập từ tiền tác quyền, trở
nên giàu có.
Từ 1970 tới 1975, với nhiều diễn biến lớn
diễn ra tại Việt Nam, đời sống cũng như công việc của ông cũng có nhiều
bất ổn. Những ngày cuối tháng 4 năm 1975, trước việc quân Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa vào miền Nam, Phạm Duy quyết định đưa gia đình di tản ra
nước ngoài. Ngày 28 tháng 4, ông và vợ, hai con gái được máy bay của Mỹ
đem đi.
Trải qua nhiều khó khăn của hành trình di
tản, ông và gia đình cũng ổn định, cư ngụ tại Thành phố Midway, Quận
Cam, California. Thời kỳ này ông vẫn tiếp tục sáng tác, biểu diễn và tổ
chức cũng như tham gia các đêm nhạc về mình.
Năm 1990, ông bắt đầu viết hồi ký, khi hoàn tất chia làm 4 cuốn.
Năm 1999, vợ ông là bà Thái Hằng qua đời,
sự kiện này khiến ông bị cao huyết áp phải đi nằm bệnh viện một thời
gian dài. Sau năm này, ông quyết định thực hiện những chuyến về thăm quê
hương sau 25 năm xa cách.
Tháng 5 năm 2005, ông chính thức trở về
Việt Nam, mua nhà sống tại Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh cùng các con
trai Duy Quang, Duy Cường. Tháng 7 cùng năm, lần đầu tiên kể từ năm
1975, 9 bài hát của ông được cấp phép phổ biến. Thời kỳ này ông vẫn hoạt
động âm nhạc, tuy sức khỏe đã có dấu hiệu giảm sút, nhiều bệnh được
phát hiện ra.
Ngày 27 tháng 1 năm 2013, sau một thời
gian nằm viện, ông qua đời, một tháng sau cái chết của con cả ông là ca
sĩ Duy Quang. Tang lễ của ông được tổ chức tại nhà riêng và được an táng
tại Công Viên Nghĩa Trang Bình Dương vào ngày 3 tháng 2 năm 2013.
Gia đình Phạm Duy có nhiều người nổi
tiếng trong lãnh vực nghệ thuật, ngoài người cha Phạm Duy Tốn và anh
trai Phạm Duy Khiêm là những nhà văn có tiếng, còn có anh thứ Phạm Duy
Nhượng cũng là một nhạc sĩ, tác giả ca khúc Tà Áo Văn Quân. Một người
anh họ của ông là học giả Nguyễn Văn Ngọc, tác giả cuốn “Tục Ngữ Phong
Dao”. Học giả Trần Trọng Kim từng nhận ông làm con nuôi.
Đến khi lập gia đình, ngoài vợ ông là ca
sĩ Thái Hằng, còn có em vợ ông là danh ca Thái Thanh, anh vợ và em vợ là
các nhạc sĩ Phạm Đình Chương, nghệ sĩ Phạm Đình Sỹ, ca sĩ Phạm Đình
Viêm tức Hoài Trung của “Ban Hợp Ca Thăng Long”. Các con ông được ông
hướng dẫn theo nghiệp nhạc, đều có thành công trong lĩnh vực của mình:
con trai cả là ca sĩ Duy Quang, rồi đến nhạc sĩ hòa âm Duy Cường, con
gái là các ca sĩ Thái Hiền, Thái Thảo.
Ngoài ra có thể kể đến các ca sĩ Tuấn
Ngọc, chồng của Thái Thảo, tức con rể Phạm Duy; các cháu gái như ca sĩ Ý
Lan, con gái của Thái Thanh, và Mai Hương, con gái Phạm Đình Sỹ.
Thời gian khi đã vào nghề sáng tác, Phạm
Duy cũng duy trì công việc ca hát của mình, nhưng không đều đặn. Tiếng
hát của ông từng được phát trên các đài truyền thanh, truyền hình lớn
trên Nam Việt cũng như thế giới. Ông đi hát rong cùng James Durst, Pete
Seeger trong các chương trình giao lưu văn hóa Việt Mỹ, hay các chương
trình nhạc phản chiến, phong trào du ca. Bên cạnh đó, Phạm Duy còn tự
thâu âm những băng nhạc Tục ca, Tâm ca, Vỉa hè ca, Ngục ca và trong giai
đoạn đầu lưu vong ở Hải Ngoại, là hát rong trong nhóm nhạc “Gia đình
Phạm Duy”, cùng với Thái Hằng, Thái Hiền.
Ca khúc đầu tay của Phạm Duy là “Cô Hái Mơ”, một ca khúc phổ từ thơ Nguyễn Bính. Tới năm 1944, ông cho ra đời bài“Gươm Tráng Sĩ”, một ca khúc gắn với sự tích Hồ Hoàn Kiếm, và là ca khúc đầu tiên được ông viết cả lời lẫn nhạc.
Bên cạnh đó là những bài nhạc tình lãng
mạn đầu tay: “Cô Hái Mơ”, “Cây Đàn Bỏ Quên”, “Khối Tình Trương Chi”,
“Tình Kỹ Nữ”, “Tiếng Bước Trên Đường Khuya”…
Năm 1947, Phạm Duy bắt đầu sáng tác nhạc mang âm hưởng dân ca, mà theo ông: “Tôi
nghĩ rằng tôi là người Việt Nam, nếu tôi muốn được gọi là một Nhạc sĩ
Việt Nam, thì tôi phải làm nhạc Dân Ca. Đó là chuyện rất giản dị… Tôi
phải khởi sự sáng tác của tôi bằng những bản nhạc mang tinh thần Việt
Nam và với chất liệu của Việt Nam nữa”, từ đó ông cho ra đời thể loại mà ông gọi là “Dân Ca Mới”: “Nhớ
Người Thương Binh” (1947), “Dặn Dò”, “Ru Con”, “Mùa Đông Chiến Sĩ”,
“Nhớ Người Ra Đi”, “Người Lính Bên Tê”, “Tiếng Hát Sông Lô”, “Nương
Chiều”…Những bài này được ông sáng tác dựa trên 2 tiêu chí:
1 – Nét nhạc vẫn dùng âm
giai ngũ cung cố hữu nhưng áp dụng nhạc thuật chuyển hệ làm cho giai
điệu không nằm chết trong một ngũ cung nào đó như trong dân ca cổ mà
chạy dài trên nhiều hệ thống ngũ cung khác nhau;
2 – Lời ca tuy nằm trong
thể thơ lục bát, nhưng có nhiều khi được biến thể, do đó tiết điệu cũng
theo âm tiết của lời ca mà trở nên phong phú hơn.
Năm 1952, “Tình Hoài Hương” ra đời tại Sài Gòn, khởi xướng cho khuynh hướng sáng tác “Tình Ca Quê Hương”: “Sau khi nói lên vinh quang và nhọc nhằn của dân tộc với nhạc kháng chiến, bây giờ tôi đi vào tình tự quê hương…” Ca khúc tiếp theo là“Tình Ca”; hai bài này được mọi người yêu thích và nằm trong những tác phẩm tiêu biểu nhất nói về quê hương.
Phạm Duy tiếp nối thể loại “Tình Ca Quê
Hương” bằng một thể loại mà ông gọi là “Tình Tự Dân Tộc”, bắt đầu từ năm
1954, với bộ ba “Bà Mẹ Quê”, “Em Bé Quê”, “Vợ Chồng Quê”,được xây dựng bằng nhạc thuật dân ca trước đây, những bài này phổ biến tại miền Nam và theo Phạm Duy: “nó
được các lớp nhạc sĩ trẻ như Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Duy Khánh, Trần
Thiện Thanh tức Nhật Trường… hưởng ứng để soạn ra những bài mà họ gọi
là “Dân Ca Mambo Bolero”.
Giai đoạn này ông vẫn tiếp tục với các bài dân ca mới: “Đố Ai”, “Nụ Tầm Xuân”, “Ngày Trở Về”, “Người Về”, “Tình Nghèo”…Bên cạnh đó là “Thuyền Viễn Xứ”, “Viễn Du”, “Hẹn Hò”,
nói về sự chia lìa quê hương, chia lìa đôi lứa trong những ngày đất
nước Việt Nam sắp sửa chia đôi bởi hiệp định Geneva.. Ngoài ra còn có
những ca khúc lấy cảm hứng từ thiên nhiên: “Xuân Ca”, “Dạ Lai Hương”, “Xuân Thì”…
Từ sau hiệp định Genève cho đến năm 1975,
do hoàn cảnh chính trị, sự nghiệp của Phạm Duy chủ yếu phát triển ở
miền Nam Việt Nam. Đây là giai đoạn rực rỡ, quan trọng và có ảnh hưởng
lớn trong sự nghiệp của ông, với sự đi sâu vào các chủ đề tình cảm, tâm
tư, bên cạnh đó là các đề tài mới mẻ cũng như những ca khúc có vấn vương
tới chính trị.
Trong thời gian du học Pháp (1952-1954), ông thai nghén bản Trường Ca đầu tiên của mình, “Trường Ca Con Đường Cái Quan”,
với ý phản đối hiệp định Genèva chia đôi đất nước. Sau khi du học, ông
về Việt Nam tiếp tục sáng tác, ngoài một số bài mang âm hưởng dân ca,
ông tiếp tục đi sâu vào nhạc tình yêu đôi lứa, qua nhiều cung bậc hạnh
phúc, đau khổ, nhớ thương: “Đừng Xa Nhau”, “Ngày Đó Chúng Mình”,
“Tìm Nhau”, “Thương Tình Ca”, “Kiếp Nào Có Yêu Nhau”, “Mưa Rơi”, “Đường
Em Đi”, “Còn Gì Nữa Đâu”…. Và từ đó đi sâu hơn vào việc khai thác
những trạng thái tâm tưởng, với những bài hát nói về “Tình yêu – Sự đau
khổ – Cái chết”, ba điều quan trọng nhất lúc đó của ông, những ca khúc
quan trọng của giai đoạn này có thể kể đến: “Nước Mắt Rơi”, “Đường Chiều Lá Rụng”, “Tạ Ơn Đời”, “Một Bàn Tay”.
Năm 1963, ông khởi sự sáng tác tác phẩm “Trường Ca Mẹ Việt Nam”, đây là trường ca thứ hai sau “Trường Ca Con Đường Cái Quan”
hoàn tất trước đó vài năm. Đây được coi như hai tác phẩm lớn và thành
công không chỉ trong tác phẩm của ông, mà còn trong nền âm nhạc Việt.
Năm 1973, lúc “Phong Trào Nhạc Trẻ” lên
cao, ông cùng với ca sĩ Thanh Lan và nhạc sĩ Ngọc Chánh đi dự “Đại Hội
Âm Nhạc Quốc Tế” tại Tokyo, Nhật. Bản “Tuổi Biết Buồn” của ông được lọt
vào vòng chung kết. Thập niên 1970 với sự tham gia văn nghệ của các con
Duy Quang, Thái Hiền, ông có thêm những tình ca nhẹ nhàng lãng mạn thích
hợp với tuổi thanh niên, sinh viên như “Trả Lại Em Yêu”, “Con Đường Tình Ta Đi”, “Thà Như Giọt Mưa”….
Ngoài việc tự sáng tác nhạc và lời, ông
cũng không quên phổ thơ người khác thành những tác phẩm được đông đảo
người yêu mến, như những bài “Ngày Xưa Hoàng Thị”, “Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng”, tập nhạc “Đạo Ca” (phổ thơ Phạm Thiên Thư), “Thà Như Giọt Mưa”, “Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ”, “Em Hiền Như Ma-soeur” (phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên), “Tiễn Em”, “Mùa Thu Paris”
(phổ thơ Cung Trầm Tưởng)… Và bên cạnh đó, ông còn đặt lời Việt cho
những ca khúc nước ngoài, đó là những bài nhạc mới của “Phong Trào Nhạc
Trẻ”, hay những bản nhạc xưa hơn, và cả nhạc bán cổ điển. Nhiều ca khúc
do ông đặt lời được coi là thành công như: “Dạ Khúc” (Stanchen của Schubert), “Mơ Mộng” (Dreaming của Schumann), “Khi Xưa Ta Bé” (Bangbang)…
Một thể loại cũng mang lại thành công cho
ông trong giai đoạn chiến tranh nước Việt, đó là những ca khúc nói về
tâm tư của người dân, người lính trong cuộc chiến tranh Việt Nam như “Kỷ Vật Cho Em”, “Khi Tôi Về”, “Tình Khúc Trên Chiến Trường Tồi Tệ”, những ca khúc mang tính phản chiến như“Giọt Mưa Trên Lá”, “Chuyện Hai Người Lính”, “Thầm Gọi Tên Nhau”, “Tưởng Như Còn Người Yêu”. Ông cũng tham gia “Phong Trào Du Ca Việt Nam” với nhiều ca khúc nổi bật như“Việt Nam Việt Nam”, “Trả Lại Tôi Tuổi Trẻ”, “Du Ca Mùa Xuân”, và xuất bản với phong trào này tập nhạc “Hoan Ca” bao gồm các thể loại: “Bình Ca”, “Nữ Ca”, “Đồng Dao”.
NS Phạm Duy rời Việt Nam vào ngày 27
tháng 4 năm 1975 qua đường vượt biên. Trong 30 năm xa quê hương, sự
nghiệp âm nhạc của ông vẫn tiếp tục phát triển qua nhiều đề tài, thể
loại mới, tuy rằng lúc này nhạc của ông bị cấm ở Việt Nam, chỉ phổ biến
trong cộng đồng nhỏ ở hải ngoại. Giai đoạn đầu, có một thời gian ông
cùng các con và ca sĩ Khánh Ly đi hát tại các trại tị nạn cho người Việt
lưu vong. Bên cạnh đó là in sang các băng nhạc, soạn sách dạy nhạc để
kiếm tiền. Sau khi đủ vốn liếng và tự tin, ông rủ Steve Addiss, Bill
Crofut, James Durst… đi hát rong tại các quán cà phê, trường Đại Học,
câu lạc bộ ở các thành phố Mỹ. Sau đó ông thành lập gánh hát Gia Đình
Phạm Duy (The Pham Duy family singers), bắt đầu mở các chương trình ca
nhạc cũng như nhận lời mời đi diễn tại các sự kiện âm nhạc.
Phạm Duy cũng bắt đầu giai đoạn sáng tác
mới của mình từ những ngày đầu ở Mỹ. Tác phẩm gần như xuyên suốt thời kỳ
này, là tổ khúc “Bầy Chim Bỏ Xứ”, thai nghén từ năm 1975 và hoàn tất
năm 1990, gồm 18 khúc nhạc dài ngắn, ẩn dụ về hình ảnh của những người
Việt phải rời bỏ đất nước và hy vọng vào tương lai đoàn tụ, qua hành
trình ra đi và trở về của đàn chim
Thời kỳ năm 1982 ông hoàn thành các tác phẩm chính:“Trường Ca Hàn Mặc Tử” (cuối năm 1993), là loại “nhạc siêu thực” phổ từ những bài thơ của Hàn Mặc Tử. “Thiền Ca”, với phụ đề “Hát Trên Đường Về” ra đời để “hi vọng mọi người Việt Nam trở về với ba đạo gốc”. Và “Rong Ca”, gồm 10 bài: Là cuộc “thong dong đi trên con đường dẫn tới những năm 2000”, với những tâm sự của người tình già (“Người Tình Già Trên Đầu Non”), với ý nguyện hóa giải quá khứ (“Ngụ Ngôn Mùa Xuân”), chôn chặt quá khứ trong “Mộ Phần Thế Kỷ”, hứa hẹn trở về trong “Hẹn Em Năm 2000”, đặt những vấn đề cho thế kỷ mới (“Mẹ Năm 2000”), và cái nhìn lạc quan hơn vào đời sống: “Nắng Chiều Rực Rỡ”. Theo NS Phạm Duy, NS Trịnh Công Sơn chính là người giúp ông phổ biến “Rong Ca” tại Việt Nam, qua hình thức một băng cassette xách tay.
Sau nhiều lần về thăm quê hương, NS Phạm
Duy chính thức trở về định cư tại Việt Nam ngày 17 tháng 5 năm 2005, với
sự cho phép của nhà cầm quyền Việt Nam đương thời. Sự kiện này được các
giới truyền thông trong nước lẫn hải ngoại quan tâm đặc biệt. Báo chí
Việt Nam nhận xét đó là “nhịp cầu nối quê hương với người Việt xa xứ”,
“niềm vui thống nhất lòng người”, còn Phạm Duy nói cuộc trở về này là
“lá rụng về cội”. Bên cạnh đó, sự kiện này còn gặp phải sự phản đối của
một số người Việt hải ngoại, vì họ cho rằng ông đã về phe cộng sản.
Công ty Phương Nam cũng nhân dịp này, đã
đứng ra mua bản quyền toàn bộ nhạc phẩm của ông trong vòng 10 năm với
giá hơn 400 nghìn US đôla.
Người được coi là thành công nhất với nhạc Phạm Duy cho đến nay là Danh ca Thái Thanh. Thái Thanh hát nhạc Phạm Duy từ những ngày đầu ông sáng tác, bà đã biểu diễn và ghi âm hàng trăm bài. Từ những ca khúc cho quê hương như“Tình Ca”, “Nhớ Người Thương Binh”, “Người Về”, “Về Miền Trung”, “Quê Nghèo”, “Tình Hoài Hương”…, những bài có âm điệu phức tạp như “Đường
Chiều Lá Rụng”, “Chiều Về Trên Sông”… đến tình ca đôi lứa như “Ngày Xưa
Hoàng Thị”, “Nghìn Trùng Xa Cách”, “Kiếp Nào Có Yêu Nhau”, “Trả Lại Em
Yêu”, “Đừng Xa Nhau”…
Giọng hát của bà, với “phong cách hàn
lâm” trên “chất liệu dân ca”, rất phù hợp với loại tân nhạc xây dựng
trên “hơi thở nhạc dân tộc” của Phạm Duy. “Nhạc Phạm Duy + giọng hát
Thái Thanh” là sự kết hợp tiêu biểu nhất của Tân Nhạc Việt Nam suốt
nhiều thập kỷ.
Sau Thái Thanh, phải nói đến ca sĩ Duy
Quang, con trai Phạm Duy và cũng là một trong những người trình bày
nhiều ca khúc của Phạm Duy nhất. Duy Quang bắt đầu nổi tiếng từ những ca
khúc dành cho sinh viên, phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên. Thời gian sau biến
cố 1975, anh tiếp tục hát những ca khúc về tình yêu, thân phận, tâm
linh, và cả nhạc mang yếu tố chính trị. Đến khi Thái Thanh ngưng hoạt
động, Duy Quang là người đã tiếp tục dòng nhạc Phạm Duy với vai trò trụ
cột của những đêm nhạc Phạm Duy, và cũng là giọng hát chính của các đĩa
hát “Ngục Ca”, “Thiền Ca”, “Kiều Ca”.
Danh ca Thái Thanh (tên thật: Phạm Thị Băng Thanh; sinh ngày 5 tháng 8 năm 1934 tại Hà Nội), được mệnh danh là“Tiếng Hát Vượt Thời Gian”.
Bà đi hát từ thuở thiếu niên trong “Ban Hợp Ca Thăng Long” của gia đình
bà tại các tụ điểm văn nghệ ở Hà Nội, và thành danh từ thập niên 1950.
Bà thường được coi như là “Đệ Nhất Danh
Ca” của dòng Nhạc Tiền Chiến cũng như Nhạc Tình Ca ở miền Nam giai đoạn
1954-1975, và tên tuổi của bà cũng đặc biệt gắn liền với các nhạc phẩm
của NS Phạm Duy. Bà không theo học một lớp thanh nhạc chuyên nghiệp nào,
chỉ tự luyện giọng từ nhỏ theo các lối dân ca của đồng bằng Bắc Bộ và
các sách nhạc tiếng Pháp, về sau đã tạo ra một trường phái riêng hòa
trộn giữa tính chất “Opera Tây Phương” với “Dân Nhạc Việt Nam”, ảnh
hưởng tới nhiều nữ ca sĩ giọng cao của thế hệ sau như Mai Hương, Quỳnh
Giao, Ánh Tuyết…
Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975 bà ở lại
Việt Nam cho đến năm 1985 thì chuyển sang định cư ở Hoa Kỳ. Tại đây bà
tiếp tục trình diễn và thâu âm cho đến khi bà tuyên bố giải nghệ vào năm
2002.
Bà sinh ra trong một gia đình có truyền
thống văn nghệ. Cha của bà là ông Phạm Đình Phụng, có 2 vợ, vợ trước
sinh ra Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm, vợ sau sinh ra Phạm Thị Quang
Thái (Ca sĩ Thái Hằng), Phạm Đình Chương và con út là Phạm Thị Băng
Thanh.
Năm 1946, Phạm Thị Băng Thanh tản cư cùng
gia đình vào Chợ Đại, Thanh Hóa vùng kháng chiến nơi bà bắt đầu hát lúc
14 tuổi. Cũng năm này ca sĩ Thái Hằng và nhạc sĩ Phạm Duy thành hôn với
nhau. Năm 1950 thì gia đình Phạm Duy di chuyển về Hà Nội rồi chuyển vào
Sài Gòn, Thái Thanh cũng đi theo.
Năm 1956, Thái Thanh kết hôn với tài tử
Lê Quỳnh tại Sài Gòn. Năm 1965 bà ly dị Lê Quỳnh sau khi đã có chung với
nhau 3 con gái và 2 con trai.
Gia đình Thái Thanh có nhiều người thành
danh trong lĩnh vực âm nhạc, ngoài Thái Thanh ra, thì chị của bà, Phạm
Thị Quang Thái, cũng là ca sĩ nổi tiếng với nghệ danhThái Hằng. Phạm
Đình Chương, anh bà cũng là một nhạc sĩ lớn của Tân Nhạc Việt Nam và
cũng là một ca sĩ với nghệ danh Hoài Bắc. Người anh cùng cha khác mẹ
Phạm Đình Viêm được biết đến nhiều với nghệ danh Hoài Trung. Thái Thanh,
Thái Hằng, Hoài Bắc, Hoài Trung đều hát trong “Ban Hợp Ca Thăng Long”
nổi tiếng thời bấy giờ.
Thái Thanh trở thành em vợ của nhạc sĩ
Phạm Duy sau khi ông cưới ca sĩ Thái Hằng làm vợ, nên bà cũng là dì của
các ca sĩ Duy Quang, Thái Hiền, Thái Thảo sau này. Ngoài ra bà còn là cô
ruột của ca sĩ Mai Hương, con gái của nhạc sĩ Phạm Đình Sỹ và kịch sĩ
Kiều Hạnh.
Thái Thanh có với tài tử Lê Quỳnh 5 người
con: con cả là Lê Thị Ý Lan sinh năm 1957, Lê Xuân Việt sinh năm 1958,
Lê Thị Quỳnh Dao sinh năm 1960, Lê Thị Thanh Loan sinh năm 1962 và Lê
Đại sinh năm 1964. Trong số đó, Lê Thị Ý Lan sau này trở thành ca sĩ Ý
Lan, còn Lê Thị Quỳnh Dao cũng đi hát với nghệ danh Quỳnh Hương. Các
cháu ngoại của bà cũng có nhiều người đi theo con đường ca hát như Mai
Linh, Ý Thi, Thanh Hương, Quỳnh Trang.
Thái Thanh bắt đầu sự nghiệp ca hát từ
năm 13-14 tuổi. Bà sở hữu một giọng hát cũng như lối hát đặc biệt, mang
tính chất Opera nhưng chịu nhiều ảnh hưởng của Chầu Văn, Quan Họ, Chèo
là những bộ môn nghệ thuật được bà tự rèn luyện, học tập từ thuở nhỏ tại
quê hương miền Bắc. Do lúc đó Việt Nam chưa có trường âm nhạc, bà tự
học nhạc bằng cách đặt mua các sách luyện thanh bằng tiếng Pháp từ Pháp.
Giọng hát của bà có âm vực rộng, nằm giữa nữ trung và nữ cao, nên thể
loại nhạc bà hát cũng rất đa dạng, phong phú.
Thời kỳ đầu, bà theo chị là ca sĩ Thái
Hằng hát ở các chiến khu Việt Minh với các bài Tân Nhạc thời kỳ đầu, hay
các bài Dân Ca Mới của NS Phạm Duy. Đến năm 1951, bà chính thức lấy
nghệ danh Thái Thanh cho giống chị Thái Hằng của bà.
Năm 1951, bà theo gia đình Phạm Duy vào
Sài Gòn lập nghiệp. Tại đây bà tiếp tục đi hát với các chủ đề về quê
hương và tình cảm đôi lứa. Giọng hát của bà tỏ ra rất thích hợp với các
loại nhạc đa dạng của nhạc sĩ Phạm Duy, từ những bài nhạc kháng chiến,
nhạc quê hương, nhạc tình, nhạc xã hội, cho tới các bản Trường Ca đều
được bà để lại một dấu ấn lớn. Bên cạnh đó, bà cũng là ca sĩ hát thành
công rất nhiều ca khúc tiền chiến xưa, hay nhạc tình đương thời của các
nhạc sĩ trẻ hơn.
Bà thật sự nổi tiếng trong thập niên
1950, được rất nhiều giới yêu thích từ giới trí thức cho tới bình dân.
Bà được coi như một diva tầm cỡ nhất của Việt Nam thời đó. Tiếng hát của
bà ngự trị trên khắp các chương trình ca nhạc truyền thanh, truyền hình
của Việt Nam Cộng Hòa. Trong giai đoạn đầu thập niên 1970, bà cùng với
“Ban Hợp Ca Thăng Long” thường xuyên biểu diễn tại vũ trường ăn khách
Đêm Màu Hồng.
Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, Thái
Thanh ở lại Việt Nam. Ban đầu bà được chính quyền cộng sản mời biểu diễn
các ca khúc cách mạng, nhưng Thái Thanh từ chối. Do không có thái độ
hợp tác, bà bị cấm hát suốt 10 năm, cho đến khi rời khỏi Việt Nam.
Năm 1985, Thái Thanh sang Hoa Kỳ định cư
cùng với gia đình. Tại đây bà tiếp tục đi diễn, thâu âm, tham gia những
đêm nhạc lớn cho mình. Bà là khách mời danh dự của nhiều đêm nhạc hội
lớn của Paris By Night. Bà cũng được mời thu thanh trên nhiều CD của
trung tâm Diễm Xưa. Tại quận Cam, bà cùng với nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi
từng mở ra một lớp dạy hát, đào tạo ra một số ca sĩ trẻ.
Năm 2000 Thái Thanh bị tai biến mạch máu
não phải vào bệnh viện. Sau tuy hồi phục nhưng năm 2002, bà chính thức
tuyên bố giải nghệ sau một đêm diễn cùng với các con cháu. Tuy nhiên
khoảng thời gian sau đó, thỉnh thoảng bà vẫn tham gia giọng hát của mình
vào các đêm diễn với vai trò đặc biệt.
Năm 2005, một đêm nhạc thính phòng mang tên “Vinh Danh Thái Thanh – Tiếng Hát Vượt Thời Gian”
được tổ chức tại Montreal, Canada, với sự tham gia của Thái Thanh cùng
nhiều ca sĩ nổi tiếng của thế hệ sau như Tuấn Ngọc, Ý Lan, Trần Thu Hà…
Trong đêm nhạc này màn trình diễn của bà được đánh giá là xuất sắc, dù
trước đó đã có nhiều nghi ngờ về tuổi tác, cũng như sức khỏe của bà.
Năm 2006, bà trở lại là nhân vật chính trong đêm nhạc“Thái Thanh và ba thế hệ”.
Giọng ca Thái Thanh được giới nghiên cứu
đánh giá cao, và cũng là đề tài ca ngợi của giới văn nghệ sĩ tại miền
Nam trước 1975 và tại hải ngoại sau 1975. Nhạc sĩ Phạm Duy, người song
hành với Thái Thanh trong phần lớn các ca khúc của mình, từng cho rằng
không ai có thể thay thế được Thái Thanh trong sự diễn tả những sáng tác
của ông.
Nhạc sĩ Phạm Duy từng nói:
“Giọng hát Thái thanh, một giọng hát
diễm tuyệt: tất cả hạnh phúc và khổ đau của kiếp người bị đày đọa trong
chiến tranh và hòa bình, trong vinh quang và khổ nhục, trong hy vọng và
tuyệt vọng, qua những bản nhạc khóc – cười – nổi – trôi – theo mệnh
nước”.
Nhiều thập kỷ qua người người đều biết ca
sĩ Thái Hằng & Nhạc sĩ Phạm Duy là “một đôi” tình nhân lý tưởng
trong thế giới người đời, nhưng “một đôi” trong thế giới âm nhạc thì
Thái Thanh và Phạm Duy mới đúng là một “cặp đôi” lý tưởng song hành với
nhau qua nhiều thập kỷ và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người ái
mộ.
Thái Thanh hát nhạc Phạm Duy như thể bà
chính là nhân vật trong bản nhạc, bà có khả năng diễn đạt những ý tưởng
của NS Phạm Duy trong các tác phẩm để đời của ông xưa nay không có người
thay thế.
Dưới đây mình có bài “Mấy ý nghĩ chung
quanh HÀNH TRÌNH ÂM NHẠC PHẠM DUY” và 14 clips tổng hợp “Trường Ca-Tình
Ca Phạm Duy và Thái Thanh” tiêu biểu trước và sau 1975 để các bạn tiện
việc tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn.
Túy Phượng
(Theo Wikipedia)
(Phổ Tịnh)
Phạm Duy đã hát một đời qua bao nhiêu
thăng trầm của cuộc sống, từ thời nhạc tuổi xanh đến thời kì ngạo nghễ
hào khí của kháng chiến, từ tiếng hát vững chãi khẳng định dáng đứng
Việt Nam đến tiếng hát sâu lắng của cõi tâm, từ tiếng hát về niềm yêu
thương bao la của mẹ đến tiếng hát phẫn nộ, tiếng hát về những bi kịch
của đời người, hay lời hạnh phúc của những người yêu nhau. Cuộc đời sáng
tác của ông cũng rất dài, bao trùm qua nhiều thế hệ. Trong vòng 60 năm
góp mặt, Phạm Duy đã hát về rất nhiều đề tài, phản ảnh những tâm cảnh
khác nhau của một người Việt Nam trước cuộc sống đa dạng: lắm vinh quang
nhưng cũng rất nhiều khổ nhục.
Bài hát đầu tiên của ông là một bài thơ
phổ nhạc: Cô Hái Mơ (1942) cách nay đúng 60 năm. Ca khúc này ra đời
trong buổi bình minh cuả “nhạc cải cách”, sau này gọi là “tân nhạc”. Dù
không phải là người sáng tác ca khúc tân nhạc đầu tiên, ông vẫn nghiễm
nhiên là một trong số những nhạc sĩ tiền phong của phong trào tân nhạc
trong buổi đầu. Trong suốt sáu mươi năm sáng tác, Phạm Duy đã đem đến
cho công chúng Việt Nam ngàn lời ca, đã làm rung động nhiều thế hệ. Có
thể nói là trong sáu mươi năm qua, không thế hệ người Việt nào là không
“nợ” Phạm Duy một món nợ tình cảm là được lưu dấu xúc cảm của riêng mình
trong ít nhất là một khúc hát của ông.
Phạm Duy có một đức tính ít thấy ở người
nghệ sĩ: óc tổ chức các tài liệu sáng tác của chính mình. Từ khoảng hơn
mười năm trở lại đây, ông đã tự mình đi sưu tầm tài liệu trong các văn
khố hay trong trí nhớ của người xung quanh để sưu tập và sắp xếp phân
loại lại toàn bộ các sáng tác của mình. Kết quả của công trình nói trên
là các tập Hồi Ký 1, 2 và 3, tập Ngàn Lời Ca (Midway City: PDC Musical
Proctions, 1987), công trình CD Rom Hành Trình Trên Đất Mẹ (1992), và
nhất là trang nhà của chính ông trên mạng lưới thông tin toàn cầu (Web)
mang tên: Ngàn Cánh Nhạc (tức là Phạm Duy Anthology). Nhờ những công
trình đó mà ngày nay công chúng thưởng ngoạn hôm nay có thể tìm biết và
nghe nhạc Phạm Duy không khó lắm.
Trong công trình Phạm Duy Anthology (Ngàn
Cánh Nhạc), ông căn cứ theo thứ tự thời gian và đề tài để phân loại các
mảng bài hát theo thứ tự ra đời của chúng. Ông tự chia tác phẩm mình ra
thành thanh niên ca, dân ca, kháng chiến ca, quân ca, trường ca, tâm
ca, tục ca, vỉa hè ca, bình ca, nữ ca, bé ca, đạo ca, tị nạn ca, ngục
ca, hoàng cầm ca, rong ca, thiền ca. Và dĩ nhiên là không thể thiếu tình
ca được. Kể cũng khó có thể dùng bảng phân loại này để thu tóm đủ các
khuôn dáng một sự nghiệp đồ sộ như vậy. Chẳng hạn, tâm ca, đạo ca và
rong ca rất gần nhau về tính cách, vì chúng đều nhằm diễn đạt khía cạnh
những suy nghiệm nội tâm, những cảm thức tâm linh; về mặt nào đó ba mảng
sáng tác này khá gần gũi nhau và do vậy có thể xếp vào một nhóm. Một
trường hợp khác: loạt ca khúc “Tị nạn ca” và “Ngục ca”, “Hoàng Cầm ca”
dù khác nhau rất xa chủ đề nội dung, nhưng lại có thể quy về một nhóm
sáng tác phản ánh thời thế, hiện thực xã hội.
Trước hết, hãy dạo qua một lượt Phạm Duy
Anthology để thấy sức sáng tác liên tục và bền bỉ của ông. Hành trình
sáu mươi năm âm nhạc Phạm Duy đã dàn trải qua nhiều chặng đường, với
những thành tựu về tác phẩm khác nhau. Sáng tác của Phạm Duy thật phong
phú đa dạng biết là chừng nào, từ đề tài đến thể loại. Trong suốt hơn
sáu mươi năm tân nhạc, các nhạc sĩ khác thường chỉ nổi bật qua một số đề
tài nào đó, phổ biến nhất là đề tài tình yêu. Thể loại sáng tác chỉ là
những ca khúc. Nghe nhạc Phạm Duy có thể nhận thấy đề tài ca khúc của
ông dàn trải rất rộng. Hiện thực cuộc sống Việt Nam trong mấy chục năm
qua được phản chiếu qua tác phẩm của ông. Cho đến nay vẫn chưa có một
bảng tổng kê các chủ đề lớn trong nhạc phẩm Phạm Duy. Ngay đến một đề
tài quen thuộc của ca khúc tân nhạc, — nhạc tình — cũng có thể nhận ra
những sắc màu phong phú của nhạc tình Phạm Duy. Trong một thiên biên
khảo về lịch sử tân nhạc Việt Nam, Phạm Duy cho rằng nhạc tình có nhiều
dạng: nhạc tình cảm tính (romantique), nhạc tình não tính (cérébral),
nhạc tình ảo tính (psychedélique), nhạc tình dục tính (sensuel). Các bản
tình ca của tân nhạc chúng ta trước nay thường không ra ngoài chất nhạc
tình cảm tính. Hoạ chăng có nhạc tình Trịnh Công Sơn và Lê Uyên Phương
có thể thêm vào danh mục những bản tình ca phong phú sắc màu như bảng
phân loại của Phạm Duy mà thôi. Có lẽ chỉ trong nhạc tình Phạm Duy mới
thấy đủ dáng vẻ của những bản tình ca theo như cách phân loại của ông.
Một nét đặc biệt nữa của nhạc Phạm Duy là
nó phản ảnh sống động những tâm cảnh của ông và của mọi người Việt Nam
chúng ta trước cuộc sống. Phạm Duy không chỉ hát về những cuộc tình, mà
ông còn hát về những bà mẹ, về quê hương đất nước yêu dấu (mà về cuối
đời ông xem là những lời hát xưng tụng quê hương thần thánh kia chỉ là
những lời ca ảo tưởng về một quê hương không thật), về những vui buồn
của những con người quanh ông trong một thời đất nước rất tan lìa. Ông
hát khi một sớm mai thức dậy nghe tin người thân ngã gục ngoài chiến
trường, ông hát cùng những em bé, những cụ già vất vưởng trên đường quê,
ông hát về tâm tình của một người quả phụ chiến tranh, về một chiếc lá
trong mưa, về hai người lính trẻ, về những chuyến đi xa đầy ngậm ngùi về
thân phận nhược tiểu. Hiện thực Việt Nam sẽ hiện ra ngồn ngộn trong ca
khúc Việt Nam qua dọc dài những sáng tác của Phạm Duy. Rồi đây cũng cần
những cố gắng hệ thống hoá những đề tài trong nhạc phẩm Phạm Duy để nhận
ra những tâm cảnh Việt Nam qua những tiếng hát đó.
Trên đây là nói về đề tài. Đến thể loại
sáng tác cũng là một nét đặc sắc của sự nghiệp âm nhạc Phạm Duy. Từ ngày
thành lập đến nay đã hơn 60 năm, tân nhạc Việt Nam cho đến nay vẫn còn
đang chuộng hình thức thể loại ca khúc. Những bài hát từ thời “tiền
chiến” đến thời “hậu chiến”, rồi thời nhạc nhẹ hiện nay đều dưa vào thể
loại ca khúc là hình thức sáng tác cho nó. Đó là một khúc hát gồm có một
hoặc nhiều phiên khúc và một điệp khúc . Phạm Duy là một trong những
người tiên phong tìm tòi thể nghiệm về mặt thể loại cho ca khúc tân
nhạc. Ông làm khá nhiều trường ca, xem như là một hình thức thể loại mới
và công phu hơn thể ca khúc rất nhiều. Trước ông đã có một vài thể
nghiệm về thể loại trường ca của Lê Thương (Hòn Vọng Phu) và Phạm Đình
Chương (Hội Trùng Dương). Mặc dù đã ý thức về đoạn mạch, bố cục và tính
nhất quán về ngôn ngữ nhạc, các trường ca vừa kể đều là tập hợp của ba
ca khúc có đoạn mạch khá đồng dạng, xem như những khung âm thanh để
chuyển tải những lời hát kể chuyện mà thôi. Đến Phạm Duy thì thể nghiệm
thể loại đã nâng cấp một bước dài. Từ những đoản khúc dân ca mới, rồi
dân ca phát triển mà bố cục không vượt quá xa cấu trúc những bài dân ca
truyền thống, Phạm Duy đã đẩy những ca khúc phát triển từ dân ca lên
thành những tổ khúc nhiều chương đoạn kết với nhau thành một chỉnh thể
những biến tấu theo quy tắc kí âm phương tây nhưng vẫn đậm nét nhạc dân
tộc. Trường Ca Con Đường Cái Quan (1960) và Trường Ca Mẹ Việt Nam (1964)
là những thành tựu về thể loại này. Sau này, hình thức tổ khúc (mà ông
gọi là “Trường Ca”) lại thêm màu sắc của kịch — như trường hợp tổ khúc
Bầy Chim Bỏ Xứ (1990) và Minh Hoạ Kiều I (1997) và Minh Hoạ Kiều II
(2002). Đây là những tìm tòi rất có ý nghĩa về mặt thể loại không ai có
thể phủ nhận.
Cũng trong sự tìm tòi về mặt thể loại, có
lẽ cũng chính Phạm Duy là người mở đường cho hình thức những tập hợp
nhiều ca khúc xoay quanh một chủ đề để làm những tập ca khúc đầu tiên
tại Sài Gòn vào những năm 1960. Chúng tôi muốn nhắc đến tập Mười Bài Tâm
Ca (1965) như là một khai phá đầu tiên của ông về mặt thể loại tập ca
khúc. Những thể nghiệm nghệ thuật bạo dạn như Phạm Duy đã và đang làm,
không thấy có nhiều trong sinh hoạt nhạc Việt hôm nay.
Cũng qua trường hợp Phạm Duy, chúng ta có
thể thấy là Tân Nhạc Việt Nam hiện đang có những tìm tòi thể loại để
phát triển nó trong tinh thần Việt Nam. Thể loại ca khúc khi du nhập
Việt Nam đã và đang thoát hình để hội nhập trong dòng nhạc nước nhà.
Những tìm tòi khai phá về thể loại mà Phạm Duy và những người cùng thời
đã nói lên khát vọng sáng tạo tân nhạc trên cơ sở dân tộc-hiện đại.
Hành trình sáu mươi năm của nhạc Phạm Duy
như thế là một hành trình dài, đa dạng và phong phú. Hôm nay, nhìn lại
hành trình âm nhạc của ông, tôi hình dung cuộc hành trình đó như một
hành trình ba chặng lớn, từ một thời hồng của tuổi thanh niên sang thời
tuổi vàng — là thời sung mãn nhất của một đời người –, và hiện nay ông
đã bước qua thời xanh, khi tuổi đã già nhưng tiếng hát vẫn còn nguyên
sức trẻ của sáng tạo.
(1) Thời hồng:
xưng tụng quê hương huyền thoại
(1942-1964)
xưng tụng quê hương huyền thoại
(1942-1964)
Phạm Duy khởi đầu sự nghiệp âm nhạc của
mình bằng công việc ca hát trên sân khấu ca nhạc. Năm 1941, ông bắt đầu
hát trên sân khấu Đức Huy-Charlot Miều. Trong không khí hứng khởi của
buổi đầu tân nhạc, ông bắt đầu sáng tác một bản nhạc tình phổ từ một bài
thơ mới. Đó là bài Cô Hái Mơ. Một số bài sau đó là những bài hát mang
khí vị cổ điển từ tựa đề bài hát cho đến nội dung. Đó là những bài Gươm
Tráng Sĩ, Chinh Phụ Ca. Phong vị cổ điển này sẽ còn in dấu trong các
sáng tác về sau, khi ông tham gia kháng chiến chống Pháp. Những bản nhạc
tình như Cây Đàn Bỏ Quên (1945), Khối Tình Trương Chi (1945), Tình Kỹ
Nữ (1946) đều phảng phất không khí cổ điển như thế.
Đi kháng chiến, ông được bắt rễ trở lại
với dân dã, gần gũi quần chúng. Tác phẩm của ông dần dà được định hình
trong khuynh hướng rất nhất quán suốt thời gian sáng tác sung sức nhất
của ông trong thời gian ở vùng kháng chiến. Phạm Duy đã xác định con
đường sáng tác của mình: dựa trên cơ sở dân ca mà phát triển lên thành
ngôn ngữ nhạc mới cho mình. Một loạt những bài dân ca kháng chiến và
những bài khác đều mang một phong cách chung: trở về với chất liệu dân
ca để nâng lên thành thẩm thức mới cho thời hiện đại. Những bài dân ca
mới hay có khi còn gọi là dân ca kháng chiến trong giai đoạn này đã mở
đường cho một loạt những thành tựu mới — những bài dân ca phát triển —
khi ông vào Sài Gòn (1951). Có thể nói là những năm tham gia kháng chiến
đã giúp định hình cho khuynh hướng và quan điểm sáng tác rất nhất quán
của Phạm Duy trong những năm về sau này. Đó là sáng tác những tác phẩm
ca khúc dựa trên cơ sở điệu thức ngũ cung của âm nhạc truyền thống,
nhưng vẫn mang tâm tình của thời hiện đại. Từ đây nhạc Phạm Duy được bay
bổng. Thập niên 50 và 60 là giai đoạn của những sáng tác rất điển hình
cho chiều sâu xúc cảm của người nghệ sĩ sáng tác trong thời kì này. Đây
là thời kì của hai trường ca Con Đường Cái Quan (1960) và Mẹ Việt Nam
(1964).
(2) Thời vàng:
hát về hiện thực quê hương hôm nay
(1965-1988)
hát về hiện thực quê hương hôm nay
(1965-1988)
Năm 1964 đánh dấu một chuyển hướng trong
sáng tác của Phạm Duy. Sau khi trường ca Mẹ Việt Nam ra đời, ông ôm đàn
đi đến các tụ điểm học sinh sinh viên để hát về Mẹ Việt Nam. Có lẽ qua
những chuyến đi này, ông có dịp nhìn lại khoảng cách giữa tác phẩm của
ông và hiện thực cuộc sống chung quanh ông vào những năm tháng ấy. Năm
1964 là thời gian miền Nam đang trải qua những biến động chính trị, cộng
thêm với sự leo thang của chiến tranh, đã dẫn đến những khủng hoảng xã
hội. Văn học nghệ thuật đã tự làm những cuộc tự vấn lương tâm qua những
diễn đàn như tập san Giữ Thơm Quê Mẹ (1963), Hành Trình (1964), tập san
Thái Độ (1965), rồi tạp chí Đất Nước (1966). Không khí học thuật lúc bấy
giờ đã tác động mạnh đến các sinh hoạt văn nghệ giai đoạn này.
Từ những giai điệu mượt mà óng chuốt của
trường ca Mẹ Việt Nam đến những bài tâm ca trần trụi, khô khốc và nhiều
dằn vặt, là một khoảng cách quá lớn. Phạm Duy ra mắt những bài Tâm Ca là
một bước chuyển hướng quan trọng trong sáng tác ca khúc, không những
của riêng ông mà còn cả những người sáng tác trẻ ở thế hệ sau, như
Nguyễn Đức Quang, Trịnh Công Sơn. Trước kia, trong thời tham gia kháng
chiến, Phạm Duy cũng đã có những bài hát rung động lòng người vì tính
cách hiện thực của chúng. Những bài dân ca kháng chiến hay những bài hát
về Bà Mẹ Gio Linh, về Thu Chiến Trường chẳng hạn là những bài hát về
hiện thực hùng tráng của đất nước trong thời kháng chiến:
Mẹ già cuốc đất trồng khoai
Nuôi con đánh giặc đêm ngày
Cho dù áo rách sờn vai
Cơm ăn bát vơi bát đầy
Nhà thì nó đốt còn đây
Khuyên nhau báo thù phen này
Mẹ mừng con giết nhiều Tây
Ra công xới vun cầy cấy
Hò ơ ới hò! Hò ơ ơi ới hò!…
(Bà mẹ Gio Linh-1948)
Nuôi con đánh giặc đêm ngày
Cho dù áo rách sờn vai
Cơm ăn bát vơi bát đầy
Nhà thì nó đốt còn đây
Khuyên nhau báo thù phen này
Mẹ mừng con giết nhiều Tây
Ra công xới vun cầy cấy
Hò ơ ới hò! Hò ơ ơi ới hò!…
(Bà mẹ Gio Linh-1948)
Hiện thực Việt Nam trong Mười Bài Tâm Ca
và những bài trong thời gian sau đó là một hiện thực khác, nhiều ray
rứt, khắc khoải và chia lìa:
Sáng nay vừa thức dậy
Nghe tin em guc ngã ngoài chiến trường
Nhưng trong vườn tôi
Vô tình khóm tường vi
Vẫn nở thêm một đoá…
Tôi vẫn sống ! Tôi vẫn ăn ! Và tôi vẫn thở !
Tôi vẫn sống ! Tôi vẫn ăn ! Và tôi vẫn thở !
Nhưng biết bao giờ
Tôi mới được nói thẳng
Những điều tôi ước mơ ?
(Tâm ca số 1 – Tôi ước mơ -1965)
Nghe tin em guc ngã ngoài chiến trường
Nhưng trong vườn tôi
Vô tình khóm tường vi
Vẫn nở thêm một đoá…
Tôi vẫn sống ! Tôi vẫn ăn ! Và tôi vẫn thở !
Tôi vẫn sống ! Tôi vẫn ăn ! Và tôi vẫn thở !
Nhưng biết bao giờ
Tôi mới được nói thẳng
Những điều tôi ước mơ ?
(Tâm ca số 1 – Tôi ước mơ -1965)
Một phần khá lớn những ca khúc Phạm Duy
trong thời kì này là những bài hát về cuộc chiến đang leo thang dữ dội,
về những hệ luỵ của chiến tranh đối với đời sống mổi con người bình
thường. Loạt ca khúc mang tên Tâm Phẫn Ca vàQuê hương Tồi Tệ, Bình Ca là
những bài hát phản ánh những âu lo, buồn khổ cùng niềm vui của những
con người đi qua cuộc chiến. Hẳn nhiên là Phạm Duy vẫn làm nhạc tình.
Giai điệu những bài tình ca của ông vẫn trữ tình, mượt mà như những bản
tình ca trong khoảng thời gian những năm 1950 của thời kì trước. Nhưng
dáng vẻ tình yêu trong một bài hát như Cỏ Hồng chẳng hạn vẫn mang tính
cách thời đại của nó: khuôn mặt tình yêu trong một thời bất trắc dường
như vẩn nhiều lo âu, như hối hả, như khắc khoải.
Trong thời kì này Phạm Duy có làm Mười
Bài Đạo Ca (1972). Ra đời trong thời gian này, tập đạo ca dường như lạc
lõng trong diễn trình sáng tác của Phạm Duy, nhưng không phải vậy. Tập
ca khúc này phản ảnh rất trung thực bối cảnh văn hoá miền Nam lúc đó:
thời chiến tranh khốc liệt và nhiễu nhương cũng là thời kì xã hội đi tìm
những điểm tựa. Miền Nam lúc ấy đang dấy lên phong trào văn học nghệ
thuật Thiền đạo như một thời thượng văn hoá nhưng cũng là một sự cầ
nthiết để góp phần hoá giải những đau khổ khắc khoải trong tâm thức văn
nghệ sĩ và trí thức buổi ấy. Mười Bài Đạo Ca phản ảnh tâm thức Phạm Duy
trong những năm tháng ấy mà thôi.
Năm 1975 là một năm bản lề lớn trong đời
Phạm Duy. Sau hơn 30 năm sáng tác trong lòng đất nước, nay ông lưu vong
ra hải ngoại. Sau cơn chấn động tâm lí nặng nề, Phạm Duy cầm bút trở
lại, và viết một loạt những bài hát thời thế mà sau này ông gộp chung
trong loạt bài Tị Nạn Ca. Loạt bài hát này ít được phổ biến trong công
chúng nghe nhạc, nhưng nó có chỗ đứng rất quan trọng trong toàn bộ sự
nghiệp Phạm Duy. Một phần lớn những ca khúc trong nhóm này là những ca
khúc đơn giản về khúc điệu, một nét phong cách của những ca khúc thời
thế của ông, bắt đầu từ những bài ca thời kháng chiến đến những bài tâm
ca. Nội dung những ca khúc là những khắc khoải của một người nghệ sĩ lưu
vong lạc lõng giữa nơi xa lạ, và hoang mang trước viễn cảnh về tương
lai. Những bài hát ra đời trong giai đoạn mười năm đầu tại Hoa Kì là
những bài hát nói về những cảnh khổ của những gia đình bị chia cáxh,
những oan khổ của con người vì chia li, thù hận. Ca khúc của Phạm Duy
trong giai đoạn này đôi khi loé lên những lời phê phán gay gắt đối với
thời thế, sự phẫn nộ đối với thân phận nghiệt ngã đè nặng lên những nạn
nhân của một thời nhiễu nhương cùng cực. Thời kì này sẽ kết thúc khi ông
hoàn tất những nét nhạc cuối của tổ khúc Bầy Chim Bỏ Xứ (1985). Đây là
một tác phẩm dài hơi, đã thai nghén từ khá lâu ố từ những ngày cuối cùng
của ông tại Sài Gòn (1975) ố và đã kết tinh những khắc khoải cao nhất
và sâu lắng nhất, và nó cũng phản ảnh cô đọng nhất những ước mơ của Phạm
Duy về hiện thực Việt Nam đương đại. Nếu ngày trước, ông đã hát về đất
nước hào hùng qua lịch sử (trong Con Đường Cái Quan, Mẹ Việt Nam) thì
bây giờ đây, trong Bầy Chim Bỏ Xứ, ông hát về những đau thương cùng tột
của đất nước mà ông đang cùng sống với mọi người, ông hát về những hoài
vọng cho tương lai khi đất nước hồi sinh. Khi hoàn tất Bầy Chim Bỏ Xứ,
Phạm Duy cũng bắt đầu bước vào một thời kì mới trong sự nghiệp sáng tác
của ông.
(3) Thời xanh:
hát trên đường về cõi vô cùng
(1988-2002)
hát trên đường về cõi vô cùng
(1988-2002)
Năm 1988 đánh dấu sự ra đời của một tập
ca khúc rất lạ, và có cái tựa rất dài: Mười bài Rong Ca: Người Tình Già
Trên Đầu Non (Hát Cho Năm 2000). Mười bài rong ca có hai chủ đề chính:
chủ đề thứ nhất là những bài hát mang tính cách tổng luận về những đổ
vỡ, đau thương mà nhân loại đã phải trải qua trong suốt thế kỉ XX; chủ
đề thứ nhì là những cảm nhận của người nghệ sĩ về tiếng gọi càn khôn.
Phải nói ngay là cả hai chủ đề trên không phải là mới lạ đối với Phạm
Duy. Chủ đề thứ nhất là gì nếu không phải là những tiếng hát về hiện
thực cuộc sống chung quanh ta? Đấy là một chủ đề quen thuộc trong sáng
tác Phạm Duy từ bao năm qua mà thôi. Có khác chăng là ở đây, hiện thực
đã được lọc lại ở mức độ khái quát cao nhất. Sang chủ đề thứ hai, thì
phải nói là Phạm Duy cũng đã tiếp cận với nó từ rất sớm, ngay từ những
năm kháng chiến trên núi rừng Việt Bắc. Khi ấy, chàng trai trẻ Phạm Duy
đi ngang qua chiếc cầu biên giới, chợt thốt lên một câu hỏi rất siêu
hình: Lòng tôi sao vẫn còn biên giới? Hồn tôi sao vẫn ngừng nơi đây?
(Bên Cầu Biên Giới – 1947). Những ám ảnh khát vọng siêu hình ấy còn trở
lại nhiều lần nữa, chẳng hạn trong bài Tìm Nhau (1956) có những câu hát
rất lạ khi đặt trong môt bài tình ca: Tìm trong câu thơ cổ, tìm qua
tranh tố nữ, tìm trên môi đương ca câu thương nhớ – Tìm sâu trong muôn
thủa, tìm sau lưng bốn mùa, tìm nhau như Thiên Cổ tìm Nghìn Thu. Những
ám ảnh siêu hình kia sẽ trở lại ở mức độ dàn trải nhất, sâu sắc nhất
trong Rong Ca như một sự tiếp nối mà thôi.
Tiếp nối Rong Ca là Mười Bài Thiền Ca:
Hát Trên Đường Về (1992). Tác phẩm này hát về một chủ đề rất siêu hình:
hạnh phúc trong cõi thường lạc. Nếu hạnh phúc trong tình yêu có khi sẽ
trở thành những vết thương rướm máu, thì niềm hạnh phúc trong thế giới
của ngã tịnh thường lạc là một cõi an bình trong suốt, ở đó không có vẩn
bụi đau khổ, không có những vết xước của thù oán, không có những xao
động của lo âu. Mười bài thiền ca là những tiếng hát về cõi an lành đó.
Nét nhạc thanh thoát lạ thường, lời hát cũng lãng đãng như vô nhiễm.
Đến Trường Ca Hàn Mặc Tử (1994) thì người
nghe nhạc Phạm Duy được tiếp cận một hành trình chinh phục hạnh phúc
của người nghệ sĩ, khởi đầu từ những thú đau thương để tiến về cõi vĩnh
hằng trong thế giới không còn phân biệt, nơi chỉ còn tình yêu không mùa.
Khi những tác phẩm nói trên vừa ra mắt
công chúng, có người đã tỏ ra ngỡ ngàng về một Phạm Duy khác, rất khác
với người nhạc sĩ của những bài tình ca lãng mạn tuyệt vời, rất khác với
một Phạm Duy với đôi mắt ráo hoảnh nhìn thẳng vào hiện thực nhân gian.
Thật ra, nếu nghĩ rằng Phạm Duy nay đang
lui dần về sáng tác những tác phẩm cho riêng ông bởi vì không còn bóng
dáng những hình ảnh quen thuộc trong các ca khúc bao lâu nay, thì cũng
xin lưu ý là từ những ngày xa xưa, khi còn trẻ, Phạm Duy đã có những bài
hát mang những chủ đề trừu tượng, hướng nội. Người thanh niên ấy từng
nghe tiếng gọi huyền nhiệm từ trong sâu thẳm của nội tâm. Tiếng đời nào
phải chỉ có tiếng tình yêu mà còn có những tiếng gọi của thinh không (Lữ
Hành), cảm nhận về những biên giới chia cách con người trong những
không gian tâm tưởng khác nhau (Bên cầu biên giới)… Cho nên Phạm Duy vẫn
chỉ là một thôi, dù là Phạm Duy của Tình Ca, của Cỏ Hồng, của Pháp
Thân, của Ngục ca, của Bài Hát Nghìn Thu, của Hát Trên Đường Về, hay của
Trăng Sao Rớt Rụng. Đó chỉ là một hành trình rất tự nhiên và nhất quán
của một nghệ sĩ. Một nhà phê bình đã dí dỏm nhận xét về đôi mắt Phạm
Duy: một con mắt đắm đuối lãng mạn, và một con mắt kia ráo hoảnh, tỉnh
táo soi nhìn vào hiện thực . Như thế, ba chặng đường sáng tác của Phạm
Duy là sự nối nhau của ba nhịp đời, dù ở ba chặng đời khác nhau nhưng
vẫn là một: một con người sống trọn vẹn với nghệ thuật sáng tạo âm nhạc.
Ba chặng đường sáng tạo nối tiếp nhau trong một chu trình. Hiện nay,
Phạm Duy đang thực hiện công trình cuối đời mình: Minh Hoạ Kiều. minh
hoạ ở đây không mang ý nghiã là sự lặp lại, sự sao chép lại một tác phẩm
văn học. Tác phẩm gọi là minh hoạ thật ra đã có tham vọng khắc hoạ lại
những tâm trạng, những tính cách cuả Kiều trong một khung cảnh và thời
gian nhất định. Đó là một thế mạnh cuả âm nhạc trong việc tái hiện cuộc
sống. Ở phần I này nổi lên hai điều: trời xuân rạng rỡ và những gợn mây
xám báo hiệu giông bão. Cả cái huy hoàng cuả triều đình Gia Tĩnh rồi ra
sẽ chỉ là thứ huy hoàng không thật. Nhưng đó là chuyện về sau. Ở trong
phần Giáo Đầu và trong phần I này, mọi thứ đều hãy còn là tiềm ẩn. Nghe
kĩ, có thể nhận ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau. Trong tiếng cười giòn
cuả phần I đã nghe ra tiếng thở dài đâu đó.
Một điểm nưã cũng dễ nhận thấy trong suốt
hành âm cuả phần I Minh Hoạ Kiều: đấy là bản minh hoạ Kiều hay minh hoạ
PD? Ta nghe đâu đây âm vang cuả giai điệu PD cuả Nương Chiều, cuả Ngày
Đó Chúng Mình, cuả Tôi Đang Mơ Giấc Mộng Dài, cuả Kỉ Niệm, cuả Em Lễ
Chuà Này, cuả Người Tình Tuyệt Vời… Nói thế không có nghiã là PD đã lặp
lại chính mình trong công trình mới. Giai điệu PD xưa nay vẫn là những
mẩu kỉ niệm về những tâm cảnh chúng ta, thì nay chúng cô đọng lại, dàn
trải lại. Ở đây là phong cách PD trong cách thể hiện giai điệu. Nếu nhạc
cuả phần I Minh Hoạ Kiều có gợi lại những kỉ niệm về những bài hát cũ
cuả PD, thì chỉ là vì giai điệu cuả chúng là những nét đậm cuả phong
cách âm nhạc PD mà đã năm mươi năm rồi nó bảng lảng trong không gian
Việt Nam. Ở đây cũng còn là phong cách cuả Duy Cường khi thể hiện hoà âm
nưã: phong cách hoà âm giàu ấn tượng.
Khí vị âm nhạc trong Minh Hoạ Kiều 1 là
một dáng vẻ trữ tình nhưng rất nhiều nostalgia. Trong phần I có âm vọng
nhạc đồng quê, có phong vị ca dao ngọt ngào mà chất phác. Ngôn ngữ nhạc
PD trong Minh Hoạ Kiều 1 có một nét đặc sắc mà những ai đã nghe nhạc ông
không thể không chú ý: phong cách nhạc dân tộc nổi rõ, mặc dù ông không
vận dụng một nét giai điệu dân nhạc nào. Nhưng bao trùm lên đó là phong
vị giai điệu cuả PD, rất riêng: nhạc đi kiêu kì nhưng vẫn như dễ dàng
tự nhiên như hơi thở. Ngôn ngữ nhạc trong tác phẩm này là sự dàn trải,
sự tổng hợp cuả phong cách giai điệu PD: nhạc ngũ cung như đã bàng bạc
trong giai điệu mượt mà trữ tình, “rất PD”.
Phần II – Kiều gặp Tình Yêu vừa mới ra
mắt gần đây. Trong phần này, Phạm Duy đã minh hoạ bằng nhạc bốn khúc đàn
mà Thuý Kiều đã trình tấu cho Kim Trọng nghe trong buổi thệ ước đầu
tiên. Một lần nữa câu hỏi lại được đặt ra: tâm sự Thuý Kiều hay tâm sự
Phạm Duy? Nếu khúc nhạc đầu Khúc Đâu Hán Sở Chiến Trường là hồi quang
của những hành khúc Phạm Duy ngày nào, vừa lãng mạn vừa hùng tráng, thì
cũng chính nó gợi lại những bi tráng của hiện thực Việt Nam trong chính
những hành khúc Phạm Duy một thời đã xa đó. Đến khúc nhạc tình Tư Mã
Phượng Cầu lại là hồi quang của những thiên tình ca đã làm nao lòng
nhiều thế hệ tình nhân trước kia. Ta gặp đâu đó những thổn thức của tình
yêu trong nhớ nhung đợi chờ, ta nhói lòng khi nghe tiếng gọi về của
tình nhân khi chia xa. Giai điệu tình ca vẫn mượt mà óng chuốt, và vẫn
nao nao lòng người. Khúc thứ ba là Kê Khang Này Khúc Quảng Lăng là một
mảng khác của tâm sự Phạm Duy, một người nghệ sĩ tự do, không thể trói
mình trước những thế lực muốn triệt tiêu tự do của mình. Giai điệu của
khúc hát này không phẫn nộ như một tâm ca, không bi tráng như một hành
khúc thời thế, không thê lương bi phẫn như một tâm phẫn caà Nó tràn đầy
bao dung nhưng vẫn vạch một lằn ranh dứt khoát trong tâm sự Phạm Duy về
nghệ thuật. Khúc thứ tư Chiêu Quân là dư vang của tiếng hát Phạm Duy về
thân phận nhân gian trên hành trình nhân gian đã từng bàng bạc trong
những bài hát rất xa xôi như một Bà Mẹ Gio Linh, một Ngày Trở Về,
mộtTiếng Hát To, một Kể Chuyện Đi Xa. Ta cũng nghe đâu đây thoáng hiện
những nét tâm tình của Phạm Duy trong Rong Ca.
Công trình minh hoạ này vẽ lại những tâm
cảnh, minh hoạ lại những mảnh gương soi vóc dáng cuả cuộc đời. Đối với
người sáng tác thì đây là sự dàn trải tâm sự cuả hai người cha già tóc
trắng ở hai quãng cách thời gian, khi đã qua hết bao nhiêu nhịp cầu nhân
thế có mặn mà đấy nhưng cũng nhiều chua xót. Tác phẩm cuả họ đã ngồn
ngộn những cảnh đời, những tâm sự ngổn ngang cuả một phận người. Ở đây,
không phân biệt đâu là ý nghiã cuả cốt chuyện được minh hoạ, và đâu là
tâm sự cuả chính người sáng tác.
Riêng đối với Phạm Duy, tưởng không có
chung kết một chu trình âm nhạc dài của bằng một công trình có tính cách
tổng hợp nhiều bản sắc âm nhạc của ông đến thế. Một sự kết toán đẹp đẽ
về sự thể nghiệm thể loại âm nhạc, về sự phát triển ngôn ngữ âm nhạc qua
nét nhạc dân tộc ở trình độ sâu sắc, về sự dàn trải chủ đề âm nhạc ở
mức cô đọng nhất. Ba chặng đường âm nhạc Phạm Duy về trùng phùng trong
công trình dài hơi này.
Sinh hoạt âm nhạc dù ở trong nước hay ở
hải ngoại hiện nay đang rất thiếu thốn sáng tác kịp thời và quan trọng
hơn nữa là cần phải phản ảnh tâm tình của thế hệ chúng ta. Người nghệ sĩ
lớn không phải là những người chỉ biết sống và làm nghệ thuật từ cái
tôi chật hẹp của mình. Anh ta phải sống với cuộc đời chung với mọi người
chung quanh, và nghệ thuật của anh là những chứng tích của thời đại anh
sống và làm nghệ thuật. Đó là định luật của văn nghệ. Trong các loại
hình nghệ thuật Việt Nam đương đại, âm nhạc dường như bị lạc lõng nhất.
Người nhạc sĩ sáng tác thường không phải là người sống toàn tâm toàn trí
cho nghệ thuật. Âm nhạc luôn luôn là thứ phó sản của cuộc sống một nhạc
sĩ Việt Nam; nói khác đi sáng tác âm nhạc của người nhạc sĩ — trong
tuyệt đại đa số nhạc sĩ xứ mình — chỉ là một thứ nghệ thuật nghiệp dư.
Công chúng nghệ thuật có thể đòi hỏi một nhà văn nhà thơ phải dấn thân,
phải xuống thuyền. Nhưng người nhạc sĩ Việt Nam trước nay vẫn được ưu ái
miễn trừ. Anh ta vẫn cứ thản nhiên hát về những tà áo xanh, hát về
những cụm mây lang thang, về những niềm hạnh phúc hay khổ đau rất riêng
tư, bé mọn. Nếu có ai hát về một giọt mưa, một vết máu khô trên xác một
em bé vừa chết vì mìnà thì bài hát của anh bị liệt vào loại những “tiểu
phẩm”, bị xem thường. Người ta chỉ quen vinh danh người nhạc sĩ qua
những bản tình ca bất tuyệt, mà quên rằng anh ta cũng là một người có
vui sướng và đau khổ như chúng ta, anh ta cũng sống giữa đời như chúng
ta. Vậy thì tại sao chúng ta vui sướng hay khổ đau với cuộc đời làm
người Việt Nam thì người nhạc sĩ lại được quyền miễn trừ?
Nói cho phải thì khi công chúng Việt Nam
vinh danh những người nhạc sĩ lớn của mình thì cũng là lúc người ta nhìn
ra sự lớn lao của những người nhạc sĩ đã hát về những tâm cảnh Việt
Nam. Dựa trên thước đo như vậy, người ta đã rất có lí khi tổng kết về
sáu mươi năm tân nhạc Việt Nam, rằng lịch sử nửa thế kỉ bài hát tân nhạc
Việt Nam đọng lại một vài khuôn mặt lớn mà thôi. Không nhiều. Trong số
ít ỏi những người nhạc sĩ lớn của thế kỉ vừa qua, có Phạm Duy.
Hiện nay đang có một quãng cách rất xa về
cung và cầu — nếu hiểu âm nhạc cũng là một dịch vụ tiêu thụ của xã hội.
Ở trong nước có đủ phương tiện sinh hoạt, nhưng những thương phẩm âm
nhạc trên đài truyền hình, đài phát thanh, băng nhạc thương mại đều cho
thấy tình trạng ngưng đọng trong sáng tác rất đáng lo ngại: quanh quẩn
vẫn chỉ hai mảng sáng tác: mảng thứ nhất là những bài hát về những ảo
tượng xã hội ngày đã ngày càng trở nên lạc lõng giữa cảnh chợ chiều của
chế độ xã hội chủ nghĩa, mảng thứ hai là những sáng tác kiểu “áo tiểu
thư”, “tuổi ngọc” đã từng nở rộ trong sinh hoạt văn nghệ Sài gòn trong
những năm chiến tranh ác liệt và xã hội thị dân đang tù túng trong tình
cảnh văn nghệ mất hướng. Nghệ sĩ xung kích như Trần Tiến là một hiện
tượng hiếm hoi.
Tại hải ngoại, một rừng thương phẩm âm
nhạc cũng không lấy gì làm lạc quan người thưởng ngoạn: khuynh hướng
sáng tác nếu không ngoái trông dĩ vãng thì cũng chỉ “chạy tại chỗ” với
những đề tài cũ kĩ từ những năm xưa. Thảng hoặc có sáng tác mới có giá
trị nghệ thuật thì cũng không đủ ấm nồng đủ để lôi cuốn một công chúng
thưởng ngoạn. Những cố gắng của một số nhạc sĩ như Hoàng Quốc Bảo đã
chìm lặng trong lạc lõng. Một khoảng trống tâm tình quá dài !
Hiện nay, nhu cầu gìn giữ bản sắc văn hoá
đang là một nhu cầu rất lớn của cả thế hệ thứ nhất lẫn thế hệ thứ nhì
những người Việt tại hải ngoại. Sinh hoạt trình diễn nhạc Việt ở ngoài
này dường như không hề quan tâm mảy may đến nhu cầu như thế. Rất thiếu
những sáng tác mang hồn tính Việt Nam mà vẫn đủ tầm vóc hiện đại để đáp
ứng nhu cầu giới trẻ. Công chúng hải ngoại đang chờ đợi những tiếng hát
thể hiện tâm tình Việt Nam giữa cộng đồng thế giới chứ không phải thứ âm
thanh than khóc rất phi hiện thực hay những tiếng gào thét đòi đồng
hóa. Cũng là một điều thú vị khi đọc lại một lời phát biểu của Phạm Duy
nhân khi trả lời phỏng vấn về hiện tình tân nhạc: Tôi nhận xét hiện nay
các nhạc sĩ, dù trong làng cổ nhạc hay tân nhạc, sống lẻ loi cô quạnh
quá. Thức ăn bồi dưỡng cho nhạc Việt là sự sống vô cùng phong phú ở thôn
quê. Cổ nhạc, nhạc cải cách, nhạc cải tiến, dân ca phát triển, nhạc
Việt Nam thuần tuý theo lề lối cổ điển Tây phươngà muốn tốt đẹp phải bắt
nguồn vào đời sống nhân dân. Nếu không, nó sẽ chỉ là một món hàng
thương mại (như loại nhạc ca lâu hiện nay), hay là một thứ ma tuý dành
riêng cho những người si nhạc.
Trong khung cảnh ngưng đọng như thế, Phạm
Duy vẫn hát tâm tình của những con người Việt Nam dung dị ở trong nước
hay tại hải ngoại. Công chúng cùng ông bâng khuâng, khắc khoải về một
thời bất trắc của phận người. Phạm Duy lớn và vững là như thế. Sự có mặt
bền bỉ của ông trong sinh hoạt âm nhạc hiện đại vẫn là một cần thiết,
như một của tin.