Kính gửi quý anh chị bài viết của Đỗ Thành cho những ai còn nhớ hay đã từng sống ở nơi đây những ngày tháng cũ trước năm 1975.
Caroline Thanh Hương
Cũng
tình trạng giống như Hà Nội, sau 1954, số người xưa cũ Hà Nội lãng phai
dần. Vì lý do này hay lý do khác, thời thế thế thời, nên đã có biết
bao thay đổi xảy ra. Tuy đường phố Hà Nội
vẫn như cũ, thậm chí các bảng hiệu đắp xi măng chưa kịp tẩy xóa hết,
nhưng chắc chắn những con người đã từng sinh sống và làm ăn ở đó không
còn trụ lại nhiều.
Hà Nội vẫn còn làng nhàng những ký ức
ngày trước, có thể người ta đôi khi còn nhắc đến cà phê Nhân ở phố Cầu
Gỗ, gánh phở Tư Lùn ngoài rào trường Nguyễn Trãi, hay hàng bánh tôm bà
Béo ở Bờ Hồ, song đích thực tìm lại được những người đó hẳn là quá khó.
Sè Goòng cũng không tránh được sự nhốn
nháo do thời cuộc đẩy đưa. Những ngày cuối tháng Tư 75, người Sè Goòng
thất sắc, ào ào rủ nhau chạy loanh quanh. Người lên Lăng Cha Cả, kẻ vào
Tân Sơn Nhất, anh chạy ra Bạch Đằng, chị vào trong Tân Cảng, đông, rất
đông, thi nhau leo rào vào khuôn viên tòa Đại sứ Mỹ ở Thống Nhất. Lúc
ấy chưa hẳn tất cả nắm rõ sự tình đầu đuôi, nhưng ai cũng cố tìm cho
mình, cho gia đình một sinh lộ mà không biết vì sao nữa.
Để rồi những phút cuối cùng đám đông ê
chề thất vọng vì không sao leo lên được một chiếc trực thăng, một con
tàu lớn hay nhỏ, một khoang phi cơ, đành ngơ ngác quay về, coi như chịu
trận. Kết thúc cuộc chiến tranh, đầy đường của cải vứt tràn. Chẳng ai
buồn nhặt, hốt, vì tất cả xem như không còn giá trị đích thực.
Lềnh khênh vứt khắp nơi nào là quần áo
trận, giày, vũ khí, va ly Samsonite, xe Honda, Vespa, xe đạp, thậm chí
cả ô tô, vì chủ nhân đã bỏ đi đâu đó, hay ê chề chẳng còn muốn vác về
lại nhà. Trải qua nhiều tháng năm tiếp theo, người Sè Goòng tự ên tìm
cho mình một phương cách đi khỏi thành phố.
Người trở lại quê, người dấm dúi sắm thuê
thuyền vượt biển, hay bị chuyển về sống các vùng kinh tế mới. Người cũ
Sè Goòng thưa thớt dần, có người ra đi biền biệt 40 năm, có người lâu
thật lâu không thấy quay về thành phố, để rồi chẳng một ai biết rõ hiện
giờ họ ở nơi đâu ?
Thản hoặc đôi khi bất chợt có người từ
đâu đến hỏi thăm về một cư dân nào đó đã sống ở phố này, nhà này, thì
cũng ít ai biết để cung cấp một vài tin tức cỏn con. Đại để chỉ kháo
với nhau “ hình như nhà ấy dọn đi rồi “, hay tỏ ra không biết gì cả.
Bây giờ, nếu có một người Sè Goòng nào đã
lâu không về thăm lại thành phố chắc sẽ ngạc nhiên và lạ lẫm biết bao.
Bởi vì Sè Goòng thật sự thay đổi hoàn toàn khác. Phố xá rộng ra, nhà
cửa cao lên, cầu treo cầu vượt nhằng nhịt, đường cao tốc tràn đầy, thậm
chí các tên đường cũng nghe lạ hoắc.
Đối với khách, giờ muốn hỏi thăm hẻm ông
Cọp, hay đường này đường kia mang tên ngày trước, có khi sẽ phải đón
nhận sự hờ hững, vì những người tuy mang tiếng là cư dân thành phố hiện
giờ, nhưng họ không nghe, không biết vì họ hoàn toàn là người mới đến
sau 75.
Hiện người ta đã quen với những tên Trần
Đình Xu, Võ Thị Sáu, Nguyễn Văn Trỗi, Võ Văn Tần để đâu còn nhớ đến có
một thời đó là đường Trương Minh Giảng, Trần Quí Cáp, Hiền Vương v.v…
Thậm chí, nếu người ở thành phố cũ giờ có muốn tìm lại những nơi thân
quen, xưa đã gửi gấm nhiều kỷ niệm thì cũng khó, hay không còn thấy lại
được. Bến đò Thủ Thiêm, thương xá Tax, hành lang Eden, hiệu sách Xuân
Thu, nhà sách Vĩnh Bảo, nhà hàng Brodard, Pagode, chợ Vườn Chuối, chợ
Cầu Kho, chợ Thiếc, tất cả đều phế mất, đổi tên, hay quên bẵng, còn nói
chi những cái tên nghe thân yêu như Cây Mai, Da bà Bầu, Cây Quéo thì lại
càng bặt vô âm tín.
Có người đặt câu hỏi vậy thì người Sè
Goòng giờ ở đâu ? Lớp họ đã ra đi khắp các phương trời, hoặc gửi thân
nơi biển cả, sau những lần “ đường đi không đến “, hoặc là họ gặp nạn bị
cướp, hiếp và bắt mất tích từ những năm nảo năm nào từ bọn hải tặc, để
giờ không còn rõ họ sống chết ra sao.
Một số trải năm tháng cơ cực tuổi đời đã
phủi tay từ giã trần gian trở về với cát bụi, yên nghỉ giấc thiên thu,
hay vẫn còn nán sống nơi những miền nào đó ngay trên đất nước. Có người
chợt một hôm nào được hỏi “ hồi xưa ở Saigon, anh/chị làm gì, sống ra
sao thì cũng nghe người ấy thờ ơ, dường như mình không phải là người Sè
Goòng cũ “.
Nước phèn, đồng ruộng, dầm mưa giãi nắng
đã làm cho bao sắc nét của Saigon biến đi. Tóc trở nên cứng còng, da
đen nhẻm và tay chân nhiều vết chai cứng. Đối với họ, chắc Saigon là
một dư âm xa tít tắp, dù họ còn đang sống ngay trên quê hương mình mà
vẫn thấy lạc lõng làm sao.
Nhiều người cũng quên mất xuất xứ, bởi vì
cuộc sống “ ngày bán mặt cho đất, tối bán mặt cho trời “, rồi trải qua
bao phũ phàng sóng gió, chính họ cũng đánh rơi cái căn cước sống một
thời ở Sè Goòng đi và chỉ còn mang máng thấy hình như mình đã bị gạc ra
ngoài sổ sách của nơi cũ.
Thản hoặc có một hôm nào bất chợt được
làm một chuyến trở lại chốn trước kia, họ cũng sẽ ngơ ngẩn tự hỏi có
phải đây là Sè Goòng cũ chăng ! Tôi thuộc vào hàng ngũ một trong những
người như thế.
Theo trí nhớ và hiểu biết của tôi, dân
nước tôi đã có đến 3 lần sống chuyển vùng, suốt từ thế kỷ 20 đến giờ.
Đầu tiên là những người được nhà nước Phú Lang Sa gọi mời đi “ tân thế
giới “. Họ được tuyển mộ làm phu cho các đồn điền cao su do người Pháp
mới mở khắp miền Đông Nam Bộ.
Có người tham gia một mình, có người đem
theo cả vợ con, có ngưởi rủ rê nhau cả làng, cả họ vào sống chung cho có
tình đông hương, đồng khói. Bố tôi là một trong những người được mộ đi
khai phá, cạo mủ ở nơi đồn điền mới lập đó.
Dần dần những địa danh Xa Cam, Xa Cát, Bù
Đăng, Bù Đốp, Hớn Quản, Bà Rá, Lộc Ninh, Quản Lợi kéo dài thành một
chuỗi liên hoàn tài sản và nguồn lợi khổng lồ cho những quan tham gia
việc mở đường đi lập nghiệp bày ra.
Những người phu như thế có thể sẽ lưu cữu
mãn đời với cái nghề bạc bẽo, bán thân cho sốt rét ngã nước, chết dấm
chết dúi và bị lãng quên đi. Một số lanh tay lẹ chân, có óc tháo vát,
thông minh, khéo léo thì nhẫn nhục làm, tích cóp dần đồng ra đồng vào và
thoát ra về Sè Goòng đổi đời sống kiểu khác.
Dần dần họ thành những hạt giống, ăn nên
làm ra, đầu tư vào một số ngành nghề : guốc mộc, chạm trỗ, đồ gỗ, buôn
bán để gây cơ sở và lôi kéo bà con, quen biết, người làng vào sinh sống
đông thêm cho có bè có bạn. Có những khu phố rặc toàn người Bắc, như
quanh quanh các con đường gần chợ Bến Thành, họ sống với nghề kim chỉ,
rao mời tơ lụa Hà Đông, sản xuất bánh kẹo, bán hàng ăn, chụp ảnh, cũng
để lại được ít tiếng tăm và sự tin cậy.
Cũng từ những bước đầu tiên đó, họ lập
hội tương tế để cưu mang nhau, hoặc để tựu họp vào các ngày lễ truyền
thống của làng, chia sẻ với nhau niềm vui nỗi buồn nơi đất mới. Họ lấy
tên làng làm danh xưng của hội, hoặc họ lấy tên miền để gọi cho hội có
vẻ bề thế hơn. Có một dạo người ta nghe các tên như Giác Quang tương
tế, Bắc Việt tương tế, Phù Lưu tương tế, Vũ Bản tương tế (hay cái tên
riêng biệt Nhà sách Vĩnh Bảo chẳng hạn).
Đến khi người Pháp thua trận Điện Biên
Phủ phải rút đi, hiệp ước Geneva chấp thuận chia đất nước thành 2 miền,
chờ 2 năm sau sẽ có tổng tuyển cử thì lại một phen nhốn nháo di cư.
Người Hà Nội có 300 ngày để chọn lựa nơi sinh sống của mình.
Tiếng là tự do chọn lựa muốn ở đâu thì ở,
nhưng khi có bóng dáng chính trị đổ xô vào thì chuyện đi hay ở không dễ
dàng như ta tưởng. Càng gần ngày hết hạn thì con đường 5 càng có những
trạm kiểm soát gắt gao. Người ta dùng tình cảm ràng buộc nhau, hoặc ve
vãn, hoặc gây khó khăn để hạn chế bớt số người gánh gồng rủ rê nhau
tếch.
Những chuyến tàu há mồm, những chuyến vận
tải cơ bay dồn dập, người ta choàng cho sự kiện đó cái tên “ di cư 54
“, hẳn nhiên cũng không khỏi bị kèm theo hay đánh giá mỉa mai, như chỉ
có tứ Công mới bỏ quê hương đất nước như thế. Người ta gói gọn 4 Công
để ám chỉ : Công giáo, Công An, Công chức và Công nợ.
Ai nói cứ nói, ai dèm cứ dèm, nhưng một
đi là cứ đi. Có người cũng vì tiếc căn nhà mới tậu hay còn thân nhân
đau ốm thì ở lại, cứ tự nhiên. Lại một lần Sè Goòng giang tay ra đón,
thu vén nơi ăn chốn ở, điều tiết việc ổn định gia cư. Những địa danh
mới được đặt ra như Cái Sắn, Hố Nai, Tầm Vu, Gia Kiệm hoặc những cái tên
kèm một loạt chữ Tân đứng đầu (Tân Bùi, Tân Hà, Tân Phát v.v…)
Bẵng đi 20 năm trôi theo nhau, chiến
tranh vẫn ùng oàng, nhưng vết thương dần dần kín, tuy cái sẹo thì không
sao xóa được. Người Sè Goòng hào hiệp, bao dung, khó giúp nhau lấy
thảo. Những ngày đầu còn rải rác khích bác, cà khịa nhau, chọc trêu
nhau kiểu “ Bắc Kỳ dzốn, ăn rau muống… “, thế nhưng chẳng mấy chốc đã
hòa tan vào nhau đến đỗi lằn ranh ngăn cách tự dưng bị lu mờ.
Người Sè Goòng chính thống không còn hiềm
khich mà thậm chí người mới nhập cư cũng thấy mình bị loãng ra và loáng
thoáng hình dáng Sè Goòng đã ngự trị trong người lúc nào chả biết nữa.
Có người cũng đã tập dẻo giọng trêu đùa nhau : cô Hai, chèn ui, cô ngộ
chi ngộ ác, giờ mà nghe cô câu dzọng cổ, chắc tui uên mất đường dzìa, cô
ui !…
Có
thể từ bản chất dễ dãi, ít câu mâu và sẵn lòng giúp đỡ, nên người Sè
Goòng chủ động chóng xóa đi bờ vực ngăn cách giữa người Nam và Bắc Kỳ. Cuộc
di cư hàng triệu người có làm xáo trộn phần nào cuộc sống yên ả của
miền Đồng Nai, Bến Nghé, bước đầu cũng có xảy ra dăm ba cuộc xô xát cỏn
con, thế nhưng vốn tính mau hòa hợp, lằn ranh trên tự nhiên khép gần lại
và xóa bỏ hồi nào không hay.
Thậm chí những gia đinh định cư nơi Tân
Mai, Cái Sắn, Dốc Mơ, Tầm Vu lần lần còn được chính bà con sở tại cưu
mang, giúp dựng lên những căn nhà, hay chỉ vẽ cho đường đi nước bước
trong việc mưu sinh, hoặc phục hồi các nghề truyền thống.
Một dạo, loại chiếu Bát Tràng, gỗ Vụ Bản
hay bánh gai Hàng Than cũng đã chen chân vào sinh hoạt ẩm thực và đời
sống của miền Nam. Những cánh đồng cò bay thẳng cánh lần lần xóa đi
những lằn ranh chia cách và mặc nhiên trở thành tình nghĩa đồng bào
thương yêu và lo lắng cho nhau.
Đất lành chim đậu, cái nắng Sè Goòng làm
nhạt phai chuyện nói móc, xỏ xiên nhau, cơn mưa sông Tiền sông Hậu làm
phai đi giọng nói cưng cứng miền ngoài. Sự tiếp xúc tự nhiên làm cho
tình làng nghĩa xóm tự ên kết tụ, lòng người miền Nam hào phóng vốn dĩ
đã quen.
Người Bắc Kỳ hết còn lạ về nghĩa cử
truyền thống miền Nam, nhà nào ở miệt vườn cũng đều đặt sẵn cái khạp
chứa nước và cái gáo dừa có cán ở đầu hè để trưa nắng bạn làm đồng ngoài
kia từ ruộng bước lên có ngay hớp nước uống vô dễ thấy mát ngọt mà tan
đi nỗi mệt nhọc.
Sinh hoạt hằng ngày khiến cho người hai
miền càng ngày càng sát lại gần hơn, chẳng mấy chốc sự ghẹo trêu nhau bị
mất đi hồi nào cũng chẳng biết. Rồi tình cảm nảy sinh, gió mát trăng
thanh, những bữa nhậu, những câu hò, vọng cổ làm cho ruột gan nhau thấm
đậm tình người.
Cuộc di cư hàng triệu người một sớm một
chiều bỗng tan đi chớp nhoáng. Đã có những cuộc tình đẹp thiệt đẹp nảy
sinh, trai Bắc chọn gái Nam vì các cô hiền từ, ngoan, biết chiều chồng,
giỏi bếp núc, và có giọng hò, thả câu lý, ca vọng cổ mượt mà hết xảy.
Ngược lại anh trai Nam chọn chị Bắc vì cái nết hay lam hay làm, chịu
đựng, hi sinh, sẵn sàng gánh vác công lênh nhà chồng như chính nhà mình.
Chả thế mà chiều chiều đã có những chiếu
rượu dưới gốc cây ô môi để nghe các cô em Nam Bộ rỉ rả câu tình lang lả
lướt, và khối anh Bắc cũng mon men học bằng được món luyến láy của cách
nói lối để vào câu vọng cổ dạ lang hay vọng cổ hoài lang rất ngọt ngào.
Ai dám cả quyết lòng mình không rung động khi nghe các nường thỏ thẻ gọi mời : anh Hai ui, có mệt dzô nghỉ chút cho phẻ, gồi đi típ. Và giữa bộn bề của cuộc sống, ai chẳng sẽ chùng lòng khi nghe câu lửng của cô em : nếu có thương nhau, anh dzìa thưa cha thưa mẹ, đừng để em mỏi mòn chờ đợi nhe anh.
Báo sao các ông nhà thơ, nhà văn không
thấy mình rạt rào vì đất nước Sè Goòng ? Ta đã từng ngẩn ngơ vì câu hát
nghe như giọng hò văng vẳng : Nhà Bè nước chảy chia hai; ai dzìa Gia Định, Đồng Nai thì dzìa. Hoặc : nắng Saigon em đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông…
Cho đến nay, dù vật đổi sao dời thì mỗi
lượt có dịp đi ngang Kẻ Sặt, Phương Lâm, Lâm Hà, Bình Phước ta vẫn còn
bắt gặp dấu ấn của một thời người Bắc chuyển vùng vào sinh sống trong
Nam. Ở những địa phương đó ít nhiều họ cũng góp phần vào dựng xây kinh
tế và nét văn hóa đặc thù của cái nôi sông Hồng nơi mảnh đất đã rộng tay
đùm bọc, cưu mang.
Có nhiều người đơn giản nghĩ rằng đề cập
đến Sè Goòng là chỉ khoanh vùng vào một địa giới cỏn con cũng đổi thay
tên gọi trải qua thời thế. Chẳng hạn có người đã nhắc tới tên Sài Côn
của một vương triều nào đó, có người ám chỉ vùng đất mới được khai phá
vòng vòng quanh những khu phố được dựng xây từ những năm cuối thế kỷ 18,
sau khi người Pháp chiếm Nam Kỳ.
Riêng với tôi, Sè Goòng không chỉ hẹp như
vậy, bởi vì tuy địa danh Saigon được khoanh vùng trong tâm tưởng là như
thế, nhưng khi nói về người Sè Goong giờ ở đâu thì ta phải hình dung ra
cái nghĩa rộng lớn vô cùng.
Bởi vì nhiều người vì lẽ này hay lý nọ
giờ không còn ở lại nơi đất nước mà phiêu bạt khắp các nơi thì trong trí
óc họ Sè Goòng là tất cả, là Bến Tre, Cà Mau, Long Khánh, Bạc Liêu, là
bến Bạch Đằng, cầu Ba Cẳng, là Phước Tỉnh, Phú Xuân v.v… và v.v… của
những đêm hồi hộp nằm ém chờ chạy ồ ra biển, hay ngay cả Tân Sơn Nhất
đĩnh đạc lên chuyến bay ra đi.
Trong những cuộc chuyển vùng bất đắc dĩ
đó, phải nói cuộc tháo chạy 75 là vô cùng bi thảm. Dư luận rêu rao lên
án về một sự phản bội gì đó, về những sự khiếp sợ không rõ ràng, bởi vì
chính thực những người xô đẩy nhau trốn chạy, hay đành ở lại cũng không
hiểu nguyên do đã có lúc khiến họ hãi đến vậy.
Bây giờ có người xa Saigon đã 40 năm
tròn, có người vẫn đi về năm một vài bận, nhưng Sè Goòng vẫn nằm đâu đó
trong suy nghĩ của từng cá nhân. Con số hằng triệu người phân rải rác ở
khắp nơi, chỗ nào mở rộng lòng nhân từ giơ tay cứu vớt họ, tạo cho họ
một cơ hội sống, giúp họ lập lại cuộc đời từ bước đầu.
Thấm thoắt giờ đã hình thành thế hệ 2
hoặc 3 của những người ra đi đó. Nơi đất tạm dung, họ đã có cuộc sống
ổn định, con cái học hành đến nơi đến chốn, có công ăn việc làm, có tư
hữu, có đóng góp công lao mọi mặt vào dòng chính. Một vài nơi họ còn
lưu lại nhiều dấu tích về một nền văn hóa của dân tộc vì họ nghĩ rằng
các vật thể này nói lên lòng biết ơn của họ với quê hương tạm dung.
Phần lớn họ đã thành công dân của nước sở
tại, thụ hưởng mọi quyền lợi như dân dòng chính. Có thể đời sống họ có
khác đi, họ Tây hơn, Mỹ hơn, Úc hơn, song một phần hồn của họ vẫn chưa
sao quên đi SAIGON của một thời đã sống.
Đối với họ SAIGON vẫn là một ký ức chưa
phai nhạt. Người ta có thể đùa gọi trệu tên của miền đất hồi nào, hoặc
Sè Goòng, hoặc Sài Ghềnh, hoặc Sầu Thành, hay gì gì khác, nhưng nhất
định lảng vảng những chiều thứ bảy tay trong tay dạo phố, lần đầu tiên
trao nụ hôn tình, hay một lần chờ đón nhau nơi cổng trường thì chắc chắn
họ vẫn chưa quên.
Có một điều lạ khiến người viết băn khoăn
là bất kỳ cuộc di dân chuyển vùng nào cũng bắt nguồn từ phía Bắc dồn
vào Nam mà ít khi thấy ngược lại. Kể cả từ khi phong trào mộ phu đi tân
thế giới, khổ chứ có sướng gì đâu thì việc ra đi vẫn là từ con đường
ấy.
Phải chăng vì Sè Goong có một sự vẫy gọi
âm thầm nào đó mà không ai có thể dùng lời lẽ để phân tách ra được.
Thôi thì cứ biết thế đi, vì dẫu có sao thì SAIGON vẫn là một phần của
giải đất hình chữ S kia mà.
ĐỖ THÀNH
Đọc thêm những chuyện được kể ở trên
Chiếu Nga Sơn gạch Bát Tràng
Vải tơ Nam Định lụa hàng Hà Đông.
Vải tơ Nam Định lụa hàng Hà Đông.
Đặc sản Hà Thành - Cốm làng Vòng, bánh cốm Hàng Than
Hà Nội- thủ đô ngàn năm văn hiến.Hà Nội khôngchỉ có nét đẹp của con người nơi đây mà Hà Nội còn có nét đẹp tròn văn hóa ẩm thực.Nhắc đến văn hóa ẩm thực chúng ta không thể không nhắc tới món cốm làng Vòng-món ăn dân dã mà thanh tao trong dịp thu về
Nghề làm cốm làng Vòng, bắt nguồn từ truyền thuyết: Vào một mùa thu cách đây cả ngàn năm, khi lúa bắt đầu uốn câu thì trời đổ mưa to, gió lớn, đê vỡ, ruộng lúa cao nhất đồng cũng chìm nghỉm. Người làng Vòng đành mò cắt những bông lúa còn non ấy đem về rang khô, ăn dần, chống đói. Không ngờ cái sản phẩm bất đắc dĩ ấy lại có hương vị riêng, rất hấp dẫn, khiến người làng Vòng thường hay làm để ăn chơi mỗi khi mùa thu đến.Món cốm làng Vòng có thể xem là món ăn bí truyền vì nó có từ rất lâu đời
Quy trình làm cốm tưởng chừng đơn giản nhưng cũng khá phức tạp.Để làm ra được món cốm đầu tiên chúng ta phải gặt lúa mang về,sau một số quá trình sơ chế.Sau đó lại tiếp tục được mang sao ở nhiệt độ thích hợp mới được cốm ngon và dẻo
Thóc rang xong, để nguội, cho vào cối giã, mỗi mẻ giã khoảng 5 kg. Giã mươi phút, thấy có trấu thì xúc ra, sảy trấu đi, lại giã, tới 7 lần, mỗi lần phải tùy theo cốm khô hay ướt mà có biện pháp xử lý. Lần giã thứ 5 phải phân cốm ra làm 3 loại: cốm rón, cốm non và cốm gốc và giã riêng từng loại trong hai lần cuối.
Cốm tươi xào với đường trong một chiếc chảo lớn cho cốm, đường quyện vào nhau. Đậu xanh hấp chín, nghiền mịn, trộn đều cùng đường cát, mứt bí, mứt hạt sen. Phết một lớp dầu ăn trên tấm lá chuối tươi, trải một lớp cốm xào đường, một lớp nhân đậu xanh, phủ một lớp cốm nữa, ép chặt lại, thế là thành món bánh cốm, ngửi thôi đã mê, chưa nói đến ăn.
Cốm thành phẩm được gói thành hai lớp lá. Lớp trong là lá ráy xanh và mát giữ cho cốm khỏi khô và không phai nhạt màu xanh ngọc thạch quý giá; Lớp ngoài là lá sen có hương thơm thoang thoảng, thanh cao.
Bánh cốm Làng Vòng là một lễ vật không thể thiếu trong những đám hỏi xứ Kinh kỳ. Bên cạnh trầu cau, rượu thuốc, trái cây… nhà trai bưng đến nhà gái trăm chiếc bánh cốm, trăm chiếc bánh xu xuê. Màu đỏ của bánh xu xuê giao hòa với màu xanh của bánh cốm, như mong duyên của đôi trẻ trăm năm thắm đượm.
Tuy cốm khôn phải là món ăn của bốn mùa.Nhưng bất kì ai khi mùa thu đến mà chưa có dịp thưởng thức cốm làng Vòng thì coi như chưa đến Hà Nội
Cũng như những thứ quà khác, cốm ngày xưa được làm ra với ý nghĩa ban đầu là làm quà sêu tết, tặng nhau. Ấy mới có chuyện những chàng rể xưa muốn lấy lòng bố mẹ vợ liền làm cốm đem biếu. Dần dần phát hiện ra thứ quà thanh nhã và tinh khiết ấy rất phù hợp với các việc lễ nghi nên người ta làm cốm để thờ cúng tổ tiên, lễ chùa và dùng trong đám cưới, đám hỏi của người Kinh Bắc. Cho đến nay, cốm Vòng được bán khắp các phố, chợ Hà Nội. Cứ mỗi mùa thu đến, lại thấy các bà, các chị làng Vòng quẩy đôi gánh xinh xinh, giắt đầy cây lúa non đã tuốt hạt, đi dọc các phố mà rao “Ai cốm đây”, nghe thật quen thuộc.
Có thể nói cốm làng Vòng xứng đáng là món ăn mang nét ẩm thực đặc trưng của Việt Nam.Hãy một lần nếm thử cốm lang Vòng trong tiết trời thu se lạnh bạn nhé
Bánh cốm Hàng Than có thể là một cái tên xa lạ với những khách thập phương khác nhưng nó lại quá quen thuộc với con người Hà Nội . Người ta cũng có thể gọi là bánh cốm Nguyên Ninh vì trước kia phố Hàng Than này thuộc làng Yên Ninh, tổng Yên Thành, ngoại thành Hà Nội; Nguyên Ninh hàm nghĩa bánh cốm sẽ mang trọn “Nguyên gốc làng Yên Ninh”.
Cũng cốm, cũng đậu xanh, cũng những cách làm công phu cầu kỳ nhưng hương vị của bánh cốm Nguyên Ninh khác hẳn với những hàng bánh cốm khác. Nó dẻo, thơm ngon mùi cốm đặc trưng, rất mộc mạc, dân dã.
Đặc sản Hà Nội bánh cốm Hàng Than thơm ngon từ màu xanh của cốm
Để có được loại cốm thơm ngon làm bánh, gia đình phải lấy nguyên liệu từ làng Vòng, làng Lũ, từ tận Thái Bình, đậu xanh phải từ vùng Sơn La, Hà Bắc, bánh không có chất phụ gia và thường chỉ làm theo yêu cầu, sản xuất tới đâu, tiêu thụ hết tới đó. Cửa hàng chịu trách nhiệm về thời gian sử dụng bánh trong 3 ngày cho khách hàng.
Đặc sản bánh cốm Hàng Than vốn là món quà với những người thân yêu
Bánh cốm thường là một lễ vật không thể thiếu trong những đám hỏi xứ Kinh kỳ. Bên cạnh trầu cau, rượu thuốc, trái cây... nhà trai bưng đến nhà gái trăm chiếc bánh cốm, trăm chiếc bánh xu xuê. Màu đỏ của bánh xu xuê giao hòa với màu xanh của bánh cốm, như mong duyên của đôi trẻ trăm năm thắm đượm.