I've been so many places in my life and time
I've sung a lot of songs I've made some bad rhyme
I've acted out my love in stages
With ten thousand people watching
But we're alone now and I'm singing this song for you
I know your image of me is what I hope to be
I've treated you unkindly but darling can't you see
There's no one more important to me
Daring can't you please see through me
Cause we're alone now and I'm singing this song for you
You taught me precious secrets of the truth withholding nothing
You came out in front and I was hiding
But now I'm so much better and if my words don't come together
Listen to the melody cause my love is in there hiding
I love you in place where there's no space or time
I love you for in my life you are a friend of mine
And when my life is over remember when we were together
We were alone and I was singing this song for you
We were alone and I was singing this song for you
Bộ ảnh siêu thực của nhiếp ảnh gia Pháp
Guillaume Lamazou đã tự chụp những bức ảnh chân
dung siêu thực của chính bản thân mình đầy sáng tạo và ấn tượng.
Guillaume Lamazou là nhiếp ảnh gia trẻ người Pháp với tài khoản
Instagram có đến hàng trăm nghìn lượt theo dõi. Những tác phẩm của
Guillaume Lamazou lấy cảm hứng từ những hiện tượng của cuộc sống đời
thường khiến bất kỳ ai xem qua cũng bị thu hút, ấn tượng mạnh mẽ và lặng
người suy ngẫm với những thông điệp được truyền tải phía sau.
Dưới đây là một số tác phẩm ấn tượng của Guillaume Lamazou:
Hư Ảo
Ta từ đâu tới
Rễ má dây mơ
Trần gian ảo thật?
Một cõi mong chờ.
Thanh Hương Caroline
Chìm Nổi.
Từ trong trứng nước
Chìm nổi khó ngờ.
Giờ còn ngụp lặn
Thoát nạn như mơ.
Thanh Hương Caroline
Lãng phí thời gian.
Có gì vĩnh cửu
Nói nhỏ ta nghe
Ta là cát bụi
Đi đuối lại về.
Thanh Hương
Bay
Trên chín tầng mây
Cứ nghĩ ta bay.
Thần tiên thoát tục
Một phút lạc loài.
Thanh Hương Caroline
Cứng
Bộ óc ta cứng
Nhưng thân ta mềm.
Sắt nóng còn chảy
Đọa đầy thử xem?
Tiểu bang
Washington, Mỹ bạt ngàn hoa tulip trong mùa xuân, còn hè là thiên đường
cho các hoạt động leo núi, dã ngoại, thu về những con đường rực rỡ trong
sắc đỏ của phong, đông đến tuyết trắng phủ kín các khu rừng thông.
Mùa xuân ở tiểu bang Washington thường bắt đầu vào cuối tháng 3. Đó là
khi hoa anh đào nở trắng trên cây, bồ công anh, cúc dại phủ kín vệ đường
và không khí xung quanh được sưởi ấm bởi thứ nắng vàng như mật.
Giữa tháng 4 là mùa hoa Tulip của thành phố La Corner ở phía bắc của
tiểu bang Washington. Tại đây có các nông trại với những cánh đồng hoa
tulip bạt ngàn.
Mùa hạ ở tiểu bang Washington bắt đầu khoảng cuối tháng 6. Trời bắt đầu
tối muộn hơn, mặt trời bắt đầu lặn lúc 9, 10h tối. Đó là lúc bạn nên đi
về phía đông tới các trang trại trồng cherry, táo, berry ở Arlington,
Yakima để tự tay hái những trái cây tươi từ vườn.
Cây dâu đen (blackberry) rất dễ phát triển và lại có nhiều gai nên được trồng nhiều để làm hàng rào.
Mùa hạ cũng là thời điểm lý tưởng cho các hoạt động cắm trại, dã ngoại.
Ở tiểu bang Washington có rất nhiều khu cắm trại (camp ground) được
trang bị tốt. Thậm chí có nơi như Rasar National Park còn được trang bị
cả tắm nóng lạnh tại các khu cắm trại. Bạn nên chuẩn bị lều và đệm hơi
loại tốt, chăn ấm và có thể mang theo cả xe đạp để khám phá được nhiều
hơn.
Bắt đầu từ giữa tháng 9. những chiếc lá phong đầu tiên bắt đầu chuyển sang màu đỏ rực, sau đó là hàng sồi, bạch dương.
Nhiều người có cảm giác mùa thu là mùa xuân thứ hai ở bang Washington khi mà mỗi chiếc lá cây cũng đẹp như những bông hoa vậy.
Lễ hội Halloween được tổ chức rất nhộn nhịp vào mùa thu. Bí ngô là món
đồ trang trí không thể thiếu ở mỗi nhà trong ngày Halloween.
Tiểu bang Washington không có nhiều tuyết cũng như bão tuyết trong năm.
Đặc biệt là ở khu vực trung tâm như Seattle, Renton, có khi cả một mùa
đông chỉ 2 lần tuyết rơi.
Để tham gia các hoạt động được ưa thích trong mùa đông như trượt tuyết,
bạn sẽ phải đi ra các hướng về phía đông như Steven Pass hoặc phía nam
như Mt. Rainier.
Washington là tiểu bang nằm ở bờ Tây của Mỹ, phía bắc giáp với nước
láng giềng Canada, phía đông giáp với tiểu bang Idaho, phía nam giáp với
Oregon và 253 km phía tây chạy dọc theo biển Thái Bình Dương.
Ngoài tên chính thức được đặt tên theo vị tổng thống đầu tiên của Mỹ là
George Washington, tiểu bang này có nickname là “The Evergreen State”
có lẽ bởi hơn 52% diện tích được che phủ bởi rừng.
La 'viande transformée' classée comme cancérogène par l'OMS.
L'organisation internationale recommande également de limiter la consommation de viande rouge, "probablement cancérogène"...
(Boursier.com) — La publication de l'Organisation mondiale de la
Santé risque de faire grand bruit... Selon le Centre international de
Recherche sur le Cancer (CIRC), organisme rattaché à l'OMS, la
consommation de viande rouge (boeuf, veau, porc, agneau, mouton, cheval,
chèvre) est "probablement cancérogène".
"Ces résultats confirment
les recommandations actuelles de santé publique visant à limiter la
consommation de la viande", a expliqué le docteur Christopher Wild,
directeur du CIRC.
Viande transformée classée comme "cancérogène"
En
revanche, la viande transformée - par le salage, la fermentation, le
"fumage", ou tout autre processus visant à rehausser la saveur ou
améliorer la conservation - a été classée comme "cancérogène", en groupe
1, c'est à dire dans la même catégorie que le tabac ou l'amiante.
D'après les travaux menés par le groupe composé de 22 experts issus de
dix pays différents, chaque portion de 50 grammes de viande transformée
ingérée tous les jours augmente le risque de cancer colorectal de 18%.
Le
CIRC précise que le risque pour un individu, de développer un cancer
colorectal à cause de la viande transformée demeure faible, mais "il
augmente avec la quantité de viande consommée".
Recul de la consommation de viande en général
L'expertise
de l'OMS intervient dans un contexte déjà marqué par la baisse de la
consommation de viande. Une récente étude de l'INSEE montrait que la
part de la viande de le "panier des Français" diminue depuis les années
1980 et n'atteint plus que 20% en 2014, contre 26 % à son apogée en
1967. En France, le programme national nutrition-santé 2011-2015 recommande de limiter la consommation de viande à 100 à 150 grammes par jour, en privilégiant les "maigres"...
La charcuterie est cancérogène et la viande rouge "probablement" aussi selon l'OMS
D'après un rapport de l'Organisation mondiale de la santé, tous les produits transformés à base de viande sont "cancérogènes pour l'homme", au même titre que le tabac et l'amiante.
Par Francetv info avec AFP
Mauvaise nouvelle pour les amateurs de steak et de saucisson. La charcuterie est cancérogène, et la viande rouge l'est "probablement" aussi, annonce l'Organisation mondiale de la santé (OMS) dans un rapport publié lundi 26 octobre dans la revue médicale The Lancet Oncology et disponible en ligne (PDF, en anglais).
La charcuterie pas aussi dangereuse que le tabac
Le Centre international de recherche sur le cancer (CIRC), une agence de l'OMS, classe tous les produits transformés à base de viande dans son groupe 1, celui des substances "cancérogènes pour l'homme", au même titre que le tabac et l'amiante. Ce qui ne veut pas dire pour autant qu'ils sont aussi dangereux, note l'organisme. Dans cette catégorie des produits carnés transformés, on trouve toutes les viandes salées, fumées ou ayant subi tout autre processus qui améliore son goût ou sa conservation : la charcuterie, donc, mais aussi les viandes en conserve ou les sauces et préparations à base de viande. La catégorie "viande rouge", elle, inclut aussi bien le bœuf que le porc ou le mouton. Elle est classée dans le groupe 2A, celui des produits "probablement cancérogènes pour l'homme".
La viande favoriserait le cancer colorectal
Se basant sur plus de 800 études, le CIRC estime avoir "des indications suffisantes selon lesquelles la consommation de viande transformée provoque le cancer colorectal chez l'homme". Un risque de cancer qui augmenterait avec la quantité de charcuterie consommée. La viande rouge, elle, échappe à ce classement car le CIRC n'a que des "indications limitées" de son caractère cancérogène. Selon Le Monde, certaines données indiquent aussi des liens entre la viande et les cancers de la prostate et du pancréas. Consommer 50 grammes de viande transformée par jour accroît le risque de cancer colorectal de 18%, selon le CIRC, qui a croisé les données d'une dizaine d'études. La consommation quotidienne de 100 grammes de viande rouge pourrait, elle, accroître ce risque de 17%, mais le lien de causalité n'est pas établi avec certitude.
34 000 décès du cancer par an imputables à la charcuterie
Selon l'organisme de recherches Global Burden of Diseases, 34 000 décès du cancer sont imputables, chaque année dans le monde, à une alimentation riche en charcuteries, et 50 000 pourraient être liés à une consommation trop importante de viandes rouges. Des chiffres sans comparaison cependant avec le million de décès annuels imputables au tabac, et les 600 000 dus à la consommation d'alcool.
Le docteur Christopher Wild, directeur du CIRC, ne nie pas pour autant la "valeur nutritive" de la viande rouge, dit-il. Ces résultats doivent, selon lui, permettre aux gouvernements et aux organismes de régulation de "trouver un équilibre entre les risques et les avantages de la consommation de viande rouge et de viande transformée", pour formuler les meilleures recommandations alimentaires possibles.
Bệnh đau khớp-Nguyên nhân và cách phòng bệnh đau khớp
Bệnh đau khớp là hậu quả của quá trình viêm khớp, thoái
hóa khớp làm cho các sụn khớp bị ăn mòn. Bệnh nhân bị đau khớp sẽ cảm
thấy đau nhức ở các khớp hay cử động như là ở khớp tay, khớp đầu gối,
khớp vai…Đôi khi các khớp còn bị sưng, phát ra tiếng kêu, hạn chế khi
vận động, nhất là vào buổi sáng. Vậy nguyên nhân nào gây đau khớp và
cách phòng bệnh như thế nào?
Nguyên nhân gây đau khớp
Nguyên nhân chính dẫn đến bệnh đau khớp là lớp sụn ở khớp xương bị
thoái hóa và ăn mòn, thiếu chất nhờn ở các khớp xương, điều này tạo nên
đau nhức khi cử động hoặc vận động.
Khi tuổi càng cao thì các tế bào bị suy thoái, ảnh hưởng nhất là các
tế bào ở đầu khớp xương để tạo chất sụn và chất nhờn ở đầu khớp xương
(sụn ở khớp xương được cấu tạo như một lớp đệm giữa hai đầu khớp xương
để tránh va chạm khi cử động, còn chất nhờn ở trong khớp xương giúp cho
trơn trượt dễ dàng khi chúng ta cử động).
Những người lao động nặng về thể chất lúc còn trẻ, bị tai nạn như
đụng xe, ngã té, bong gân hoặc thiếu dinh dưỡng cũng dễ đưa tới tình
trạng đau khớp.
Triệu chứng của các bệnh đau khớp
Triệu chứng thường gặp nhất ở bệnh đau khớp, viêm khớp dạng thấp là viêm đa khớp,
diễn biến kéo dài. Bệnh nhân không chỉ bị đau, sưng tấy các khớp tay,
chân mà người bệnh còn bị viêm nhiều khớp khác trên cơ thể. Các khớp
viêm bị sưng, nóng, đỏ, đau, khó cử động.
Tình trạng khớp bị cứng, khó cử động thể hiện rõ nhất vào sáng sớm và
có thể kéo dài hàng giờ. Cùng với các triệu chứng tại khớp là hiện
tượng toàn thân như sốt, mệt mỏi, người xanh xao, gầy sút.
Bệnh viêm khớp dạng thấp
diễn biến theo từng đợt. Ở giai đoạn đầu, khi khớp mới bị sưng nóng nếu
được phát hiện sớm và chữa trị tích cực, đúng cách, bệnh có thể diễn
biến tốt. Nếu bệnh đã chuyển sang giai đoạn hai, xuất hiện tổn thương ở
sụn khớp và đầu xương, người bệnh có nguy cơ bị biến dạng khớp, dính
khớp, cứng khớp và mất khả năng vận động.
Ai là người hay mắc bệnh đau khớp?
Ai cũng có thể bị đau khớp. Nhưng thường là những người cao tuổi do
xương, khớp không còn chắc khỏe dẫn đến thoái hóa, loãng xương.
Ngoài ra, những người có dị dạng khớp, thừa cân béo phì, chấn thương
khớp, khi trẻ lao động nặng thì đến tuổi trung niên hoặc về già cũng dễ
mắc bệnh này.
Những người bị tai nạn như đụng xe, ngã té, bong gân hoặc thiếu dinh dưỡng cũng dễ đưa tới tình trạng đau khớp.
Phương pháp chữa bệnh đau khớp
1. Dùng thuốc giảm đau:
Hiện nay trên thị trường có bày bán rất nhiều loại
thuốc giảm đau như aspirin, ibuprofen hay acetaminophen, đều có tác dụng
giảm đau nhanh chóng. Tuy nhiên, bạn nên tham khảo thêm ý kiến của bác
sĩ hay dược sĩ trước khi muốn sử dụng loại thuốc nào. Ngoài ra, bạn nên
nhớ rằng thuốc là con dao hai lưỡi, bởi vậy sẽ không có lợi cho bạn nếu
quá lạm dụng thuốc giảm đau.
2. Sử dụng biện pháp châm cứu:
Châm cứu là một phương pháp có tác dụng đặc biệt đối
với những bệnh nhân mắc chứng đau xương khớp mà nhất là chứng viêm khớp
mãn tính. Bạn không nhất thiết phải quá phụ thuộc vào thuốc hay phải
“miễn cưỡng” chấp nhận những ca phẫu thuật để hy vọng cải thiện tình
trạng sức khoẻ mà có thể áp dụng liệu pháp châm cứu, đơn giản, ít tốn
kém mà đem lại hiệu quả cao trong việc điều trị.
3. Luyện tập:
Luyện tập được xem như một liều thuốc quý, rất có
ích đối với sức khỏe con người và đặc biệt cực kỳ công hiệu trong việc
giảm đau nhức. Có rất nhiều hình thức luyện tập mà bạn có thể lựa chọn
phù hợp theo độ tuổi, sức lực và sở thích, ví như những môn thể thao bơi
lội, aerobic hay chỉ đơn giản là hình thức đi bộ. đi xe đạp nhẹ
Cách phòng bệnh đau khớp
Thường xuyên vận động: Việc luyện tập không chỉ tốt cho hệ tim mạch mà còn tốt cho hệ xương, cơ và khớp.
Căng duỗi: Căng duỗi khopsẽ giúp cơ bắp được tăng
cường và củng cố các khớp. Lưu ý là phải khởi động kỹ các khớp trước khi
thực hiện bài tập căng duỗi nếu không sẽ có thể dẫn tới kết quả ngược.
Chế độ ăn uống hợp lý: Xương của bạn cần một lượng
lớn dinh dưỡng để khỏe mạnh. Vì thế các thực phẩm giàu vitamin C và E,
canxi sẽ hỗ trợ cho hệ khớp trong cơ thể không bị sớm suy thoái.
Uống đủ nước: Nước chiếm 70% thành phần của sụn và
duy trì sự trơn tru giữa 2 đầu xương. Cần uống nước đầy đủ, nhất là về
mùa đông không nên ngại uống nước.
Bệnh nhân bị đau khớp cần chú ý:
Những người bị bệnh đau khớp, bệnh viêm khớp dạng thấp tuyệt đối
không được ra ngoài khi trời lạnh kèm theo mưa phùn. Bởi những lúc trời
lạnh, độ ẩm cao thì tình trạng bệnh càng nặng hơn.
Người bị bệnh đau khớp nên đi tất ấm và dùng áo đi mưa để tránh bị
ướt. Nếu quần áo bị ẩm, cần thay ngay và lau khô người, chân tay. Còn
với bà con nông dân, khi khớp bị những đợt sưng cấp tuyệt đối không được
lội nước, lội bùn. Tốt nhất người nông dân khi làm ruộng nên đi ủng để
chân vẫn luôn khô ráo”.
Viêm khớp dạng thấp là bệnh lý mãn tính, có thể gây những di chứng
nặng nề như: dính, biến dạng khớp dẫn đến tàn phế. Ở Việt Nam, khoảng
0,3% – 0,5% dân số mắc bệnh, trong đó 80% là nữ giới ở độ tuổi từ 30 trở
lên.
Người bị viêm khớp dạng thấp phải được điều trị sớm để tránh tình trạng bị dính, biến dạng khớp dẫn đến tàn phế.
Có rất nhiều loại thuốc trị bệnh trên thị trường nhưng người bệnh không
được tự ý dùng thuốc vì có thể có những tác dụng phụ. Đặc biệt, những
thuốc điều trị về thấp khớp rất dễ ảnh hưởng đến dạ dày.
À
l'occasion de la journée mondiale contre les rhumatismes, une équipe de
France 2 s'intéresse à l'arthrose, une maladie qui concerne 10 millions
de Français.
Francetv info
L'arthrose,
c'est lorsque le cartilage des articulations se détruit peu à peu sans
que l'on sache pourquoi. Les articulations deviennent douloureuses. Chez
certains patients, tout le corps est touché.
Du sport et des outils appropriés
Des
médicaments peuvent soulager la douleur, mais on ne sait pas soigner la
maladie. Pour l'empêcher d'évoluer, le seul traitement connu pour
l'instant est l'activité physique. Mais l'arthrose continue de
progresser et certains gestes du quotidien deviennent de plus en plus
compliqués. Alors, pour aider les malades, il existe une panoplie
d'outils comme un ouvre-bocal électrique. Les malades peuvent notamment
venir les tester dans une structure de la caisse d'assurance maladie
d'Ile-de-France, aidés par une ergothérapeute. Ces objets sont vendus
sur internet ou dans des boutiques spécialisées. Le marché se développe
avec le vieillissement de la population. 10 millions de Français sont
aujourd'hui concernés.
Gingembre: son rhizome venu d’un ailleurs exotique qui fait fondre avec plaisir les affres de l’arthrose.
Gingembre et Arthrose
Le mot gingembre vient du mot sanskrit srngavera qui signifie : en forme de corne. Les grecs lui ont donné le nom ‘’ziggiberis’’ et les romains l’ont appelé zingiber devenu en français gingibre puis gingembre. Le rhizome de cette plante est utilisé dans beaucoup de médecines ancestrales. C’est une pierre d’angle des thérapeutiques ayurvédiques avec sa capacité à combattre toutes sortes d’inflammations. Elle est d’ailleurs originaire de l’Inde où elle y est largement cultivée comme en Chine où c’est le remède à tout. La culture se fait par essentiellement par fragmentation des rhizomes car les graines sont peu fertiles. En Egypte antique, on s’en servait dans le processus de momification. Répandu en Europe dès le I° siècle, le gingembre est très vite utilisé en cuisine par les grecs et les romains. Il était connu aussi des arabes sous le nom de Zanjiber du même nom que celui qu’ils avaient attribué à cette région orientale de l’Afrique où ils allaient le chercher. C’est aujourd’hui l’archipel de Zanzibar. Cette « racine » a été l’objet d’un important commerce entre l’Europe et l’Orient au Moyen Age où elle transitait par la route des Indes. Très utilisé alors pour ses vertus aphrodisiaques, le gingembre avait une importance comparable à celle du poivre. Il coûtait très cher, servait de monnaie d’échange et donnait lieu à un impôt. La plante a été importée ensuite de façon quasi industrielle par les espagnols au début du XVI° siècle après qu’ils l’aient cultivé à grande échelle dans les Caraïbes. La Jamaïque est aujourd’hui d’ailleurs un des gros producteurs de gingembre. Il est utilisé de façon courante dans la cuisine de l’Asie du sud-est en particulier en Inde. En Europe il est surtout incorporé dans la pâtisserie et la confiserie, dans des boissons rafraichissantes et dynamisantes dont la « ginger ale», le soda Canada Dry et certains « thés au gingembre » ou « thés de gingembre ». Il existe aussi une variété de bière brassée dans les Caraïbes : la « ginger beer ».
La plante en botanique
Le gingembre porte le nom scientifique de Zingiber officinale de la famille des zingibéracées. C’est une plante vivace tropicale herbacée d’environ 1 mètre de haut issue d’un rhizome. Les feuilles persistantes sont lancéolées, bisériées, longues et odorantes. Les fleurs sont blanches et jaunes ponctuées de rouge sur les bords, Après la floraison il se forme un épi qui contient des graines noires encapsulées au sommet d’une tige écaillée. La chaleur et l’humidité des tropiques lui est nécessaire pour son développement. La croissance est alors rapide et la multiplication se fait par division des rhizomes. Il est de la même famille que la cardamone ou le curcuma longa. Le galanga ou Alpina galanga est très proche du gingembre qu’il remplace souvent dans de nombreux pays asiatiques.
Pot chinois à gingembre XIX° siècle
Les propriétés médicinales
On utilise surtout son rhizome.Des études ont confirmé ses propriétés anti oxydantes, anticancéreuses, anti-inflammatoires, anti-apoptotiques, anti-hyper glycémiques et antiémétiques. On lui attribue, comme le galanga,un cousin, des propriétés aphrodisiaques. Pline l’Ancien parlait déjà de cette vertu. Les prêtresses de Dionysos composaient des philtres d’amour à base de gingembre et d’un champignon très évocateur des plaisirs de l’amour : le Phallus impudicus. Le Kâma-Sûtra évoque son usage dans des pratiques sexuelles occultes. Mais aucune étude n’est venue corroborer ces allégations. Peut-être confondait-on les maux et transports de l’amour avec les cinépathies où le gingembre a toujours fait merveille notamment chez les marins qui parcouraient alors les mers à sa recherche. L’odeur et le gout citronné à l’état frais, celui poivré et piquant à état sec du gingembre est liée à la présence de zingerone mais aussi de shogaol de gingerol qui se forment ensuite lors de la cuisson ou du séchage de la racine. C’est une plante apéritive qui favorise la digestion et améliore les troubles dyspeptiques tels que nausées, vomissements ou ballonnements: c’est le confort de la femme enceinte dans l’Antiquité. Elle améliore les symptômes des rhumes et de la grippe en renforçant des capacités de défense immunitaire de l’organisme. Le gingembre est aussi largement proposé dans le traitement des douleurs rhumatismales.
L’action antalgique sur les douleurs rhumatismales qui découle de cet effet antiinflammatoire a été étudiée de façon scientifique depuis une trentaine d’années avec quelques travaux bien conduits sur le plan méthodologique.
Quelques études dans l’arthrose
Etude danoise (1) en 2000
Les auteurs partant de l’idée que de nombreuses alternatives thérapeutiques étant proposées aux patients souffrant en particulier d’arthrose, il était bon d’en contrôler quelques-unes pour en connaitre l’efficacité. Ils vont choisir les extraits de gingembre et monter une étude en double aveugle, double insu et cross over pour les comparer à un placebo et de l’ibuprofène. Trois groupes de patients souffrant d’arthrose de hanche et de genou sont ainsi randomisés et commencent les traitements après une période d’arrêt d’1 semaine des antalgiques et antiinflammatoires habituels. Chaque groupe reçoit ensuite de façon alternative les trois traitements par période de trois semaines. Le paracétamol est l’antalgique de secours en cas de fortes douleurs pendant les 10 semaines de suivi. Les trois périodes thérapeutiques ont été rangées par ordre d’efficacité sur l’EVA douleur (p=0.00001) et l’indice de Lequesne (p=0.00005) selon la séquence Ibuprofène > extraits de gingembre > placébo. Les premières périodes de traitement montraient un meilleur effet de l’ibuprofène et du gingembre par rapport au placebo (p=0.05) tandis que l’étude en cross-over ne permettait pas de faire la différence entre gingembre et placebo. Il n’y a eu aucun effet secondaire sérieux pendant l’étude. Les auteurs concluent que le gingembre s’est avéré efficace dans le groupe qui l’a reçu comme 1° séquence et avant la phase de cross over
Etude américaine (2) en 2001
L’objectif du travail était d’évaluer l’efficacité et la tolérance d’une préparation comportant deux variétés de gingembres : Zingiber officinale et Alpina galanga sur 261 patients souffrant d’arthrose du genou. L’étude était randomisée en double aveugle contre placébo et durait 6 semaines précédées une période d’arrêt complet d’antalgiques et antiinflammatoires habituels. Le tirage au sort désignait le groupe gingembre G (510 mg/j) ou placebo P. Tous les malades prenaient les mêmes gélules 2 fois par jour et pouvaient utiliser en complément du paracétamol. Le critère principal de l’étude était la proportion de sujets répondeurs dont la définition correspondait à une diminution de 15 mm et plus de la douleur mesurée sur une EVA douleur de 100 mm. L’analyse a porté sur 247 cas exploitables en fin d’étude. 63% des patients du groupe G répondaient à ce critère contre 50% dans P correspondant à une différence statistiquement significative (p=0.04). Un critère secondaire consistait à mesurer la moyenne des diminutions de douleur dans les 2 groupes : elle était mesurée à 24,5 mm pour le groupe G et 16,4 pour P, différence hautement significative (p =0.005) comme dans un autre critère portant sur la mesure de la douleur après une marche de 100 mètres : 15,1 pour G et 8,7 pour P (p=0.016). Le groupe G se déclarait globalement amélioré de façon majoritaire et avait consommé moins de paracétamol que le groupe P. La qualité de vie n’était pas modifiée dans les 2 groupes. On notait plus de troubles gastro-intestinaux dans le groupe G que dans P : 59 contre 21. Les auteurs concluaient à un effet statistiquement significatif sur les symptômes de l’arthrose de la préparation constituée de gingembres. Cet effet était considéré comme modéré. Le profil de tolérance était considéré comme bon malgré un plus grand nombre de troubles digestifs lié à la prise de l’extrait des gingembres
Etude iranienne (3)en 2005
Comme il était déjà démontré qu’une supplémentation en gingembre pouvait diminuer la sévérité des symptômes de l’arthrose ainsi que la consommation des antiinflammatoires, les auteurs iraniens proposaient un nouveau travail randomisé en double aveugle contre placébo consistant à démontrer que les extraits de gingembres pouvaient être une alternative aux antiinflammatoires et un complément de traitement dans l’arthrose. Ils recrutaient 120 patients souffrant d’arthrose et ayant recours uniquement aux antiinflammatoires pour se traiter. Ils étaient randomisés en 3 groupes de 40 : placebo P, gingembre GE et ibuprofène IBP. Tous acceptaient de ne rien prendre dans la semaine précédant le début des traitements. Ensuite pendant un mois tous les groupes recevaient le même nombre de capsules y compris le groupe placébo mais contenant au total 30 mg d’extrait de gingembre (ces 30 mg correspondent à 1 g. de poudre sèche de gingembre selon le procédé d’extraction et de fabrication utilisé) pour le groupe GE et 1200 mg d’ibuprofène pour le groupe IBP. Du paracétamol était proposé pour compléter au besoin le traitement en cas de fortes douleurs. Les critères de l’étude comportaient la mesure de la douleur sur une EVA, du périmètre articulaire et de la mobilité articulaire par goniométrie (130° normal, 120° limité et 110 très limité). L’amélioration des symptômes était manifeste pour le groupe GE et IBP. Sur l’ensemble des mesures avec une différence statistiquement nettement significative à 1 mois par rapport au groupe P (p=0.0001). Il n’y avait par contre pas de différence entre les groupes GE et IBP. Les auteurs concluaient à la non infériorité des 30 mg d’extraits de gingembre par rapport à 1200 g d’ibuprofène.
Au total
Trois études qui tendent à montrer que le gingembre a une action antalgique non négligeable sur les manifestations douloureuses rhumatismales. Si l’on rajoute qu’in vitro le gingembre a apporté la preuve d’une inhibition de d’activation de la collagénase impliquée dans la destruction articulaire notamment au cours de l’arthrose, on a de nombreux arguments cliniques et biologiques pour le suggérer dans la composition de compléments alimentaires destinés à améliorer la qualité de vie des rhumatisants.
Bibliographie
1. Bliddal H, Rosetzsky A, Schlichting P, Weidner MS, Andersen LA, Ibfelt HH, Christensen K, Jensen ON, Barslev J. A randomized, placebo-controlled, cross-over study of ginger extracts and ibuprofen in osteoarthritis. Osteoarthritis Cartilage. 2000 Jan;8(1):9-12.2. Altman RD, Marcussen KC. Effects of a ginger extract on knee pain in patients with osteoarthritis. Arthritis Rheum. 2001; 44: 2531-2538.3. Masoud Haghighi, Ali Khalvat, Tayebeh Toliat, Shohreh Jallaei. COMPARING THE EFFECTS OF GINGER (ZINGIBER OFFICINALE) EXTRACT AND IBUPROFEN ON PATIENTS WITH OSTEOARTHRITIS Arch Iranian Med 2005; 8 (4): 267 – 2714. F.Rousset, B.Lardy, L.Grange, F.Morel. Etude comparative, in vitro, des effets de la glucosamine sulfate et du cuivramine sur la lignée chondrocytaire C-20/A4 Approche moléculaire, impact des ROS générés par Nox4 (OARSI 2012)