Nói Tiếng Việt Ở Xứ Người.
Hôm nay bắt gặp bài viết ‘Mâm cỗ’ có cao hơn ‘tiếng chào’? của tác giả Cao Huy Huân trên net, tôi chợt nhớ lại mấy năm trước khi sang Mỹ họp bạn.
Chúng tôi từ nhiều nước định cư tụ họp về vùng nam Californie vì đại đa số ai cũng thèm những món ăn Việt.
Nếu ngày xưa, lúc còn cắp sách đến trường, thì khó mà bỏ qua những món ăn hàng hay những món ăn sáng cầm tay.
Đây cũng là dịp cho chúng tôi thử lại những món ăn tuyệt vời của ngày xưa thân ái và những "mày", "tao" thân thiết.
Chuyện gì chứ ở xứ người lâu năm, cho nên mỗi người bạn đều có cách nói tiếng việt, xưng hô khác nhau khi gặp người lạ. Người ở mỹ và thường gặp cộng đồng Việt Nam thì dễ biết vì họ xưng "cô" hay kêu "cháu", "em" những người bán hàng nhỏ tuổi hơn.
Tôi thì từ xứ pháp đến, lại không ở gần xóm Việt mình lâu năm, nên mỗi khi tôi hỏi giá tiền hay kêu người bán hàng, thì luôn miệng:
"Cô ơi, cô có thể cho tôi coi món này"
hay :
"Món này giá bao nhiêu tiền vậy cô?"
Đó là tôi nói chuyện với những cô trẻ tuổ̀i, còn đối với những người lớn tuổi hơn một chút , thì tôi hỏi:
"Chị tính tiền dùm tôi " hay
"Chị làm ơn cho tôi biết..."
Tôi nhớ mấy cô bạn tôi hơi ngẩn ngơ khi nghe cách nói chuyện của tôi, nhưng khi vào trong xe, giữa chúng tôi với nhau thì cuộc nói chuyện lại giòn rang như bắp.
Khi về lại bên pháp, tôi kể lại những cuộc gặp gỡ trong chuyện đi chơi mà không khỏi ngậm ngùi.
Tôi đi chơi nước mỹ mà có cảm tưởng tôi đi chơi ở nước Việt mình, vì ai nấy làm ăn có vẻ thành công và họ tạo ra được những hoàn cảnh sống giống như đem cái gốc mình qua mỹ mà sinh sôi, bám rể lại.
Tôi biết có nhiều người Việt thế hệ sau này đều được may mắn đi học, đỗ cao và có những nghề như người nước họ cư ngụ và ít bị kỳ thị chủng tộc, tôi cũng mừng cho họ.
Mừng cho người này thì cũng không quên buồn cho thân phận những người Việt Nam xa xứ mà không là những người tỵ nạn như chúng tôi vì họ được gửi đi lao động hay gửi đi theo chồng làm dâu xứ người với hy vọng của cha mẹ là tìm tiền nuôi những người còn ở lại Việt Nam nghèo khó.
Ơ nơi đó, họ không có những cách suy nghĩ của người tự do, họ không còn những lễ giáo như ngày xưa, họ không còn tiếng mẹ đẻ để vui đuà hay trò chuyện thâu canh.
Thật là buồn cho đời người viễn xứ, tất cả những kỷ niệm đẹp đều đã lui dần vào dỹ vãng và còn lại đây là canh bài quốc tế với những con cờ trên những đường gạch nối chia cách đất nước và con người Việt Nam.
Caroline Thanh Hương
15 Tháng 5 năm 2015
Trường hợp bài post nơi đây không đọc thấy, xin nhấn vào link bên dưới để mở lại.
‘Mâm cỗ’ có cao hơn ‘tiếng chào’? – Cao Huy Huân
Ông
bà ta có câu “tiếng chào cao hơn mâm cỗ”, ý nói lời ăn tiếng nói đáng
trọng hơn là của cải vật chất. Nhìn rộng ra một chút, truyền thống ngày
xưa của người Việt Nam là coi trọng cách đối nhân xử thế, mối quan hệ
thân tình hơn là vật chất. Vậy mà theo như tôi thấy thì ngày nay dường
như truyền thống đó đang bị mai một dần. Ngoài xã hội Việt Nam lúc này
tôi chỉ thấy “mâm cỗ” được ưu tiên hàng đầu.
Thời còn học ở Mỹ, có lần tôi gặp một
tình huống rất đáng ngạc nhiên. Tôi đến Texas vào lúc tiết trời sắp
chuyển sang mùa thu. Thời tiết rất đẹp và mát mẻ. Tôi quyết định đi dạo
một vòng khu học xá để tham quan nơi mà mình sẽ theo học mấy năm. Khi
bước ra ngoài, có rất ngạc nhiên khi thấy nhiều hoàn toàn không quen
biết chào tôi “what’s up”, “hello”, “hi”. Tôi chỉ biết gật đầu cười lại.
Sau này khi đã quen thân với một vài người bạn Mỹ, tôi có hỏi họ tại
sao những người Mỹ không quen đó lại chào hỏi tôi trên đường. Câu trả
lời tôi nhận được là: “do thói quen”. Sau này, khi còn ở Mỹ, bất cứ ở
đâu tôi cũng gặp những người Mỹ xa lạ cười rất tươi và chào hỏi tôi như
người quen thuộc. Quả thật, chắc chỉ ở Mỹ mới có thói quen kì lạ như
vậy, nhưng thói quen đó lại làm tôi cảm thấy rất dễ chịu và vui vẻ. Chỉ
cần một nụ cười, một tiếng nói cũng xóa tan được cái băng giá lạnh lùng.
Người Mỹ không hề sống thiếu tình cảm như chúng ta vẫn tưởng. Theo tôi,
những người Mỹ xa lạ chào hỏi tôi là vì thói quen, nhưng nguyên nhân là
do, với họ, giữa con người với con người cần có sự giao tiếp, và với
họ, một tiếng chào không làm mất của họ đồng nào nên chẳng tiếc gì mà
không chia sẻ nó với cả những người không quen. Ở một xứ xa lạ, một nụ
cười, một tiếng chào bỗng dưng làm trái tim ấm áp lạ. Ngẫm lại xứ mình,
đôi khi chúng ta quên việc chào hỏi nhau, thậm chí có lúc còn né tránh.
Tôi còn nhớ có một cậu bạn đại học, lần đó chúng tôi đang đi chung trên
đường, bỗng dưng cậu ấy nằng nặc đòi rẽ sang hướng khác. Một lúc sau hỏi
ra mới biết, chỉ vì trên đường bỗng gặp cô giáo chủ nhiệm cấp ba năm
xưa, cậu bạn không muốn phải đến chào hỏi. Tôi cảm thấy xấu hổ giùm cho
cậu ta, một người trẻ lại không dám (đúng hơn là không muốn) mở lời chào
hỏi người đã từng dạy bảo mình.
Lại nhớ, một cô bạn thời cấp ba của tôi
lại thực dụng hơn một chút. Ngày còn đi học, mỗi khi đến ngày lễ nhà
giáo, cô ấy luôn được gia đình đầu tư cho những phần quà to và giá trị
nhất để tặng thầy cô. Sau khi đã tốt nghiệp, mỗi lần đến ngày lễ nhà
giáo hay lễ tết, lớp chúng tôi đều tụ họp đến thăm thầy cô. Trước là để
tỏ lòng tôn kính, sau là để hỏi han sức khỏe của những bậc vi sư, và
cũng là dịp để mỗi người chúng tôi cập nhật tình hình của nhau khi đã
một thời cùng là học trò dưới một mái trường. Thế mà cứ mỗi lần chúng
tôi ngỏ lời mời cô bạn ấy tham gia thì cô ấy không bận việc này thì cũng
bận việc khác, còn nói bóng gió là đã ra trường rồi thì cần gì phải đến
thăm hỏi thầy cô giáo như vậy nữa. Cảm thấy chạnh lòng, chẳng lẽ đối
với cô ấy, việc tôn kính những người thầy lại chỉ có ý nghĩa khi cô ấy
còn đi học? Ý nghĩa của ngày nhà giáo rồi cũng nhanh chóng bị quên lãng
theo những món quà, phong bao?
Tôi còn để ý thấy người Mỹ rất hay nói
“thank you” (cảm ơn) và “sorry” (xin lỗi). Cho dù đó là một anh công
nhân ít học, cho đến một vị giáo sư có học hàm học vị cao thì những từ
“cảm ơn” và “xin lỗi” luôn thường trực trên môi. Thật ra hai từ ấy cũng
chẳng có sức mạnh ghê gớm gì nhưng lại thể hiện một xã hội văn minh và
có tính nhân văn, thể hiện được giữa con người với con người có sự quan
tâm và tôn trọng lẫn nhau. Ở một khía cạnh khác, cách nói “cảm ơn” và
“xin lỗi” cũng thể hiện được tính cách của một dân tộc. Cách đây vài
ngày tôi có đọc một bài viết so sánh về cách sử dụng hai tiếng “cảm ơn”
của người Việt và người Mỹ. Theo đó, tác giả cho rằng người Việt rất ít
khi nói cảm ơn. Thậm chí khi được người khác khen ngợi, người Mỹ thường
nói “cảm ơn”, còn người Việt thì thường tìm cách từ chối lời khen đó chứ
tuyệt nhiên ít khi nào nói “cảm ơn”. Tác giả cho rằng sở dĩ người Việt
hay tìm cách từ chối lời khen ngợi là do thói quen. Dù vui như mở cờ
trong bụng khi được khen nhưng chúng ta vẫn một mực tìm cách không nhận
lời khen, bởi vì nhận lời khen tặng được xem là đồng nghĩa với thiếu
khiêm tốn, và việc nói “cảm ơn” được xem là đồng nghĩa với việc nhận
lời khen. Do đó, người Việt ít khi nói “cảm ơn” khi ai đó khen tặng.
Thêm một lý do nữa mà người Việt ít khi nói “cảm ơn”, “xin lỗi” là vì
tâm lý ngại, mắc cỡ, xấu hổ, và vì thế khi mang ơn của ai đó hay mắc lỗi
nhỏ với ai, thường họ cứ cười trừ cho qua, và tìm cách lờ đi chuyện đó.
Trăm lần như một, mỗi khi tôi bước vào bước ra một cửa hàng hay một văn
phòng nào đó, tôi giữ cửa cho người sau bước ra cùng thì chẳng khi nào
nghe có ai nói lời cảm ơn. Những lúc tôi giữ thang máy chờ một vài
người ở văn phòng làm việc thì 10 lần hết 9 chẳng có ai nở một nụ cười
cảm ơn, nói chi đến chuyện thốt lên hai tiếng lịch sự đó. Còn chuyện
không nói lời xin lỗi khi làm lỗi thì gần như ngày nào tôi cũng được
chứng kiến. Điển hình nhất là khi có va chạm phương tiện xảy ra trên
đường phố, thường thì người có lỗi và người không có lỗi đều đứng dậy và
chửi mắng nhau xối xả, nhất định không hỏi han người kia có bị làm sao
không, và dù biết mình có lỗi đôi khi cũng tìm cách lơ đi để chối bỏ
trách nhiệm.
Thói quen ít nói lời cảm ơn ở nơi công
cộng, làm cho người làm ơn có cảm giác mình có bổn phận phải làm việc
đó, cảm thấy hành động tốt bụng của mình bị phủ nhận. Dần dà, chẳng còn
ai muốn giúp ai ở nơi công cộng nữa. Việc nuốt mất hai từ “xin lỗi” khi
làm lỗi còn tai hại hơn khi nó cho thấy rằng đa số người Việt là những
người hèn nhát, không dám chịu trách nhiệm về những lỗi lầm do mình gây
ra. Còn nhớ trong vụ chìm tàu Sewol ở Hàn Quốc gần đây, những quan chức
liên quan đã tự động nhận lỗi và từ chức, thậm chí có người đã tự tử vì
cảm thấy tội lỗi nặng nề. Còn ở Việt Nam, các vị vẫn thường đổ lỗi cho
nhau và đổ lỗi cho dân vì sự hèn nhát và tham lam cá nhân. Tất nhiên, số
đông không phải là tất cả, nhưng rõ ràng thói quen của số đông sẽ ảnh
hưởng ít nhiều đến xã hội. Chỉ mong sao hai “tiếng chào” hay lời xin
lỗi, câu cảm ơn sẽ lại nở trên môi người Việt Nam.