Những người dân, những quân thần và thế cuộc Việt Nam luôn gắn mệnh người với vận nước, khó mà tránh được chuyện sai lầm hay đứng đắn.
Chuyện lịch sử, bây giờ chúng ta chỉ còn đọc lại cho biết vì không gian này biết còn ai nhớ, ai quên.
Chân thành cám ơn tác giả những bài sưu tầm được lưu lại nơi đây.
Sao cho vừa phải lẽ nào mới an...
Chịu đi cho rảnh về triều cho xong...
Bùi Thụy Đào Nguyên
Phan Thanh Giản
Phần I
Nhắc lại bi kịch của một phận người:
Phan Thanh Giản (1796 – 1867)
"Lá cờ ba sắc không thể phấp phới bay trên một thành lũy mà nơi ấy Phan Thanh Giản còn sống".Phan Thanh Giản
I.Tiểu sử sơ lược:
Phan Thanh
Giản tự là Tĩnh Bá, Đạm Như, hiệu là Ước Phu, Lương Khê, biệt hiệu Mai
Xuyên, sinh ngày 12-10 năm Bính Thìn (11/11/1796), tại thôn An Hòa, làng
Tân Thạnh, huyện Vĩnh Bình phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thạnh, nay làng Bảo
Thạnh, thuộc huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Ông xuất thân trong một gia đình nghèo khổ.Tương truyền, tổ phụ ông là Phan Thanh
Tập, gốc người Minh hương, vì không tùng phục nhà Mãn Thanh, nên di cư
sang Việt Nam, đến ở phủ Hoài Nhân (Bình Định). Nơi đây ông cưới một
người vợ bản xứ tên Huỳnh Thị Học, sinh được một trai tên là Phan Thanh Ngạn.
Năm
Tân Mão (1771), ông Ngạn dẫn dắt gia đình vào Nam định cư tại Thang
Trông (Định Tường), sau dời về Mân Thích, thuộc trấn Vĩnh Thanh, tỉnh
Vĩnh Long.
Rồi
lại bồng chống đến ở Bảo an, phủ Hoằng Trị, cũng thuộc tỉnh Vĩnh
Long.Cuối cùng mới định cư hẳn ở quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Nơi này, ông Ngạn cưới người vợ tên Lâm Thị Bút, sinh được một trai là Phan Thanh
Giản. Năm ông lên 7(1802), mẹ qua đời; cha cưới bà Trần Thị Dưỡng để có
người chăm sóc con. May mắn thay, ông không những được mẹ kế hết mực
thương yêu mà còn cho ông đi học với vị sư Nguyễn Văn Noa ở chùa làng
Phú Ngãi.
Năm 1815, vì sự cáo gian của kẻ có thù riêng với gia đình, cha Phan Thanh Giản lúc ấy đang làm Thủ hạp, là một viên chức nhỏ, phải ngồi tù oan uổng.
Nóng
lòng vì cha bị hàm oan, ông đệ đơn lên quan Hiệp Trấn Lương ở Vĩnh Long
xin được thay cha vào tù.Dù không thể giúp được gì, nhưng quan lớn này
rất cảm động trước tấm lòng hiếu thảo của chàng trai 20 tuổi, nên lựa
lời an ủi và giúp ông phương tiện ở lại gần nơi cha bị giam cầm, để vừa
trao giồi kinh sử, vừa có cơ hội thăm cha mỗi ngày…
Sau ngày cha được mãn tù, nghe lời quan Hiệp Trấn và được cha đồng ý,
Phan Thanh
Giản vẫn ở lại Vĩnh Long để tiếp tục học và chờ đợi khoa thi. Tại đây,
ông cũng gặp thêm được một tấm lòng rất đáng quí khác đã giúp ông nhiều
thứ như tiền bạc, thức ăn, áo mặc…Đó là người đàn bà tên Ân!
Điểm qua quãng đời làm quan của ông:
Năm
1825, ông đậu Cử nhân khoa Ất Dậu. Sau đó một năm, ông đậu đỗ Đệ tam
giáp đồng Tiến sĩ khoa Bính Tuất niên hiệu Minh Mệnh thứ 7 (1826), vào
năm 30 tuổi. Ông là người đậu Tiến sĩ đầu tiên ở Nam bộ.
Trước
sau ông từng giữ các chức vụ quan trọng như Thượng thư Bộ Lễ, Bộ Hình,
Bộ Hộ, làm Hiệp biện Đại học sĩ, làm quan trải qua 3 đời vua: Minh Mệnh,
Thiệu Trị, Tự Đức (từ 1826 đến 1867).
Ông từng được cử đi sứ Trung Quốc, Indonesia, Singapore, Pháp, Tây Ban Nha.
Để bài soạn được gọn, ở đây tôi chỉ ghi lại 7 lần ông bị trách phạt, bị giáng chức:
Khoảng
năm 1931 ông làm Hiệp trấn Quảng Nam và bị giáng (lần thứ nhất) làm
Tiền quân hiệu lực vì bị thua trận trong khi được phái đi dẹp loạn Cao
Gồng ở Chiên Đàn ( cuộc nổi dậy của các dân tộc ít người ở phía Bắc tỉnh
Quảng Nam).
Năm 1836, do can gián vua Minh Mạng trong chuyến ngự giá tuần thú Quảng Nam, từ hàm tòng nhị phẩm ông bị giáng (lần thứ 2) xuống chánh lục phẩm, làm một chức quan chuyên lo việc quét dọn bàn ghế trong công đường.
Ông
bị giáng (lần thứ 3) năm 1838 xuống làm Lang trung biện lý hộ vụ, vì sơ
ý để thuộc viên bỏ sót, không áp kiềm (ấn, triện) vào một tờ sớ tấu đã
được vua bút phê.
Năm
1839, từ Thái Nguyên ông được triệu về triều lãnh chức Thông chánh phó
sứ rồi thăng lên Thị lang bộ Hộ, nhưng sau đó lại bị giáng (lần thứ 4),
vì bị Minh Mạng cho là có "tư tưởng bè phái" việc ông không ký vào bản
án của Cơ mật viện quy Vương Hữu Quang tổng đốc Bình Định (Ông và người
này là người cùng làng), do tội vô đạo phải trảm thủ vì đã dám dâng sớ
can ngăn vua hay xem hát bội và xin huỷ bỏ bản tuồng Lôi Phong Tháp (mặc
dù sau đó, vua Minh Mạng vẫn tha tội cho Tổng đốc Vương Hữu Quang và ra
lệnh đốt bỏ bản tuồng).
Từ
Thông chánh phó sứ ông lại bị giáng (lần thứ 5) một cấp, vì là Phó chủ
khảo của trường Thừa Thiên khoa thi năm đó, đã để lọt bài phú của cử
nhân Mai Trúc Tùng (mắc lỗi trùng vận)
Lần
thứ 6 xảy ra vào năm Tự Đức thứ 15 (1862), cùng với Lâm Duy Hiệp, các
ông đã thất bại trong việc thương lượng với thực dân Pháp; phải mất 3
tỉnh miền Đông Nam bộ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường &đảo Côn Lôn
tức Côn Đảo), bồi thường cho giặc 4 triệu đồng chiến phí. Hòa ước Nhâm
Tuất ngày 05-06-1862 tại Sài Gòn
Lần
thứ 7,vào năm 1868 tức là 1 năm sau ngày ông tự xử vì đã để mất luôn 3
tỉnh miền Tây; vua Tự Đức đã hạ lệnh xử án trảm giam hậu, tước hết mọi
chức hàm và cho đục bỏ tên ông ở bia Tiến sĩ (tháng 11-1868).
Trong sách Việt Sử giai thoại tập 8, nxb Giáo Dục, năm 1998; ông Nguyễn Khắc Thuần có bình phẩm những lần bị cho là lầm lỗi này như sau:
Bảy lần bị trách phạt, trước sau mức độ tuy có khác nhau nhưng lỗi của Phan Thanh Giản thì gần như chỉ có một, ấy là sự bất cẩn.
Thường dân bất cẩn thì hại nhà, hại xóm. Làm quan mà bất cẩn thì hại nước, hại dân…Sau lần thứ 7, Phan Thanh Giản chẳng còn có thể chuộc
lại lỗi lầm ( ý nói ông Giản đã tự quyên sinh, người soạn viết thêm),
thế mới biết, sự cẩn trọng lúc sinh thời cần thiết biết bao…
Điểm
lại, lỗi đầu tiên: thua trận, cũng dễ hiểu thôi vì ông là quan văn
mà.Lỗi thứ 6 & 7 là chủ đề chính của bài soạn này, sẽ nói sau. Còn
mấy lần khác, tôi thấy lỗi chẳng có gì để quá quang trọng vấn đề.
Chúng ta nên nhớ, Phan Thanh
Giản là viên quan người miền Nam được vua tín nhiệm, giao cho trọng
trách lớn, chắc gì ông không bị ghen tị; và đối với phe “ chủ chiến”,
ông còn là cái gai trong mắt họ; nên chỉ vịn vào bấy nhiêu rồi qui cho
ông là người làm việc“bất cẩn” thì có hơi quá chăng?
Thêm nữa, trong dân gian và trong nhiều sử liệu đa phần đều khen ngợi ông là người tính cương trực, khẳng khái, hiếu nghĩa, thanh liêm, rất đáng kính phục.
Ngay
cả vua Tự Đức cũng đã 2 lần khen ngợi ông là : "Liêm, Bình,Cần, Cán"
được khắc trên kim khánh vào năm 1852; là "thanh liêm, cẩn thận" vào năm
1856. ( theo Đại Nam chính biên liệt truyện, t.4. Huế 1993, tr.37-42).
Và nếu ông là người làm việc thường tắc trách, thì làm gì có chuyện ông bị giáng rồi mau chóng phục hồi phẩm chức, để lại tiếp tục đảm nhận nhiệm vụ quan trọng khác.
Ngoài cuộc đời làm quan, Phan Thanh Giản còn là một nhà văn với nhiều tác phẩm có giá trị:
· Lương Khê thi thảo
· Lương Khê văn thảo
· Sứ Thanh thi tập
· Tây phù nhật kí
· Ước Phu thi tập
· Tích Ung canh ca hội tập
· Sứ trình thi tập
· Việt sử thông giám cương mục (Chủ biên)
· Minh Mạng chính yếu (Chủ biên).
Nhận xét chung, trong thơ văn của Phan Thanh
Giản, chúng ta tìm thấy những tình cảm dạt dào, lời lẽ trang trọng, một
tâm hồn trung hậu và nhất là cảm xúc hết sức chân thành.
Ở đấy, ông cũng không hay dùng lối sáo ngữ, chỉ cốt lấy sự giản dị, thành thật làm tiêu chuẩn để biểu lộ tấm lòng của một bậc quân tử theo đạo Nho…
Trích một bài để minh họa:
Giã vợ nhà đi làm quan
Từ thuở vương xe mối chỉ hồng
Lòng này ghi tạc có non sông
Đường mây, cười tớ ham giông ruổi,
Trướng liễu, thương ai chịu lạnh lùng
Ơn nước, nợ trai đành nổi bận,
Cha già, nhà khó cậy nhau cùng
Mấy lời nhắn nhủ khi lâm biệt,
Rằng nhớ rằng quên, lòng hỏi lòng?
-Ảnh bên trên là ảnh chụp Phan Thanh Giản tại Paris năm 1863, nhân dịp ông cầm đầu sứ bộ sang Pháp để xin chuộc lại 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ.
Phần II
II.Đánh giá nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản:
Có thể nói kể từ khi Phan Thanh Giản mất đi, việc đánh giá về ông đã tốn hao không biết bao nhiêu là giấy mực. Đại thể trước sau có 3 loại ý kiến:
1/
Đề cao ông “thức thời”, là “thương dân, yêu nước”. Ông chỉ chịu một
phần trách nhiệm để mất đất, còn triều đình nhà Nguyễn mới là kẻ chịu
chính.
2/ Kết tội ông để mất đất, nhưng ca ngợi lòng trung nghĩa của ông.
3/ Kịch liệt lên án ông về mọi mặt.
Bây giờ, ở những năm đầu của thế Kỷ XXI, những nhà nghiên cứu nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản ra sao? Trước khi tìm hiểu vấn đề này, chúng ta nên xem xét thật khách quan về “lỗi” thứ 6 của ông:
2.1 Đại đồn Chí Hòa thất thủ- sự khởi đầu một thời kỳ nô lệ:
Trước
tham vọng và sức mạnh vũ khí của bọn thực dân phương Tây, triều đình
Huế lúc bấy giờ tồn tại 2 khuynh hướng: chủ chiến & chủ hòa. Riêng
vua Tự Đức thì tỏ ra khá lúng túng trước cả 2 khuynh hướng ấy.
Và
rồi đại đồn Chí Hòa (bọn Pháp nói trại là Kỳ Hòa), chiến lũy kiên cố do
đại thần Nguyễn Tri Phương, thiết lập với 20 ngàn quân thường trực, 10
ngàn dân quân, 150 khẩu đại bác đủ loại kích cỡ, ở Biên Hòa có 15 ngàn
quân chính qui sẵn sàng ứng cứu; trong khi liên quân của Pháp & I
Pha Nho chỉ có 5000 quân, 50 chiến thuyền đủ loại,;vậy mà đại đồn được
xây dựng hơn năm với công sức của mấy vạn quân & dân, chỉ bảo vệ
được hơn một ngày thì mất!( 25.2.1861).
Nhiều
nhà thơ sống trong thời kỳ đã viết rất nhiều bài thơ thật hay, thật xúc
động trước nỗi đau chung của non sông, của dân tộc. Trích một vài câu:
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây…
(Chạy giặc- Nguyễn Đình Chiểu)
Hay:
Ai khiến thằng Tây tới vậy cà?
Đất bằng bỗng chốc nổi phong ba
(Ai xui Tây đến- Bùi Hữu Nghĩa)
vv…
Từ
bàn đạp ấy, chúng lần lượt tiến chiếm các trấn Biên Hòa, Thủ Dầu Một,
Tây Ninh, Định Tường, Bà Rịa & Vĩnh Long cũng chẳng mấy khó.
Sau
thất bại quá não nề (Nguyễn Tri Phương xây đại đồn từ lâu, tập trung
nhiều quân lương , nhiều súng mà không tấn công, mặc dù số địch chỉ có
800, rải rác từ Thị Nghè đến đồn Cây Mai. Rõ ràng đại đồn Chí Hòa, biểu
hiện chiến lược phòng thủ thật tai hại, tệ hại của Nguyễn Tri phương-
trích trong bài viết của Trần Văn Giàu, sách Địa chí văn hóa TP HCM,
phần Lịch sử, trang 251, - sẽ có bài viết riêng), Huế cử ngay Nguyễn Bá
Nghi vào chỉ huy cuộc kháng chiến.
Vào Nam, xem xét tình hình xong, ông này gửi lời tâu về triều rằng: “Giữ
không tiện, đánh cũng không tiện”, “hòa thì mất ít, đánh thì mất
nhiều”,”Pháp sở dĩ đánh ta vì ta lạnh nhạt với nó, nó đánh ta là để có hòa”,“đánh giữ đều không được, trừ một chước hòa, tôi chỉ còn chịu tội…”
Nghe
lời tâu hết sức sai lầm, mất “nhuệ khí”,“xuội lơ” trên, ấy vậy mà vua
Tự Đức còn buông ra những lời động viên quân tướng thật đáng tức cười ra
nước mắt: “ Phải gắng sức, khéo dùng lời cảm hóa kẻ địch để họ kiêng nể mà nghe ta”(
nói như thế khác nào khuyên hổ ăn rau! Tôi ghi thêm- trích Dương sự
thủy mạc, khuyết danh, bản dịch của Khoa Sử, ĐHTH Hà Nội)
Đến lúc đó, có thể nói đường lối “chủ chiến” đã mất nhiều uy thế.
Và đáp lại yêu cầu “nghị hòa” của Trương Bá Nghi, Charner đề xuất một hiệp ước 12 khoản.
Nhưng
đến tháng 5-1862, nhà vua mới thông báo cho Pháp đề nghị giảng hòa, vì
lúc bấy giờ tình cảnh đất nước rối như canh hẹ và nhà Nguyễn sợ dân nổi
loạn hơn sợ thực dân :Ở ngoài Bắc kỳ có tên Phụng, tên Trường, tên cai
tổng Vàng hè nhau quấy nhiễu, mà trong Nam kỳ lại mất thêm 2 tỉnh nữa.
triều đình lấy làm lo sợ lắm…(Trần Trọng Kim- Việt Nam sử lược,tr494,
nxb Tân Việt, Sài Gòn, năm 1968)
Lập tức Đô đốc Bonard sai người chạy thuyền máy ra Thuận an đưa ra 3 yêu sách…
Sau khi bàn tính thiệt hơn, nhà vua liền cử Phan Thanh Giản
và Lâm Duy Hiệp vào Nam lo việc nghị hòa với Pháp và I Pha Nho.Trước
khi phái bộ lên đường, nhà vua ân cần căn dặn: “(khi thương thuyết)
hãy dò lường tình ý, tùy nghi biện bác sao cho họ bình tâm nghĩ lại,
giảm được phần nào thì tốt cho phần ấy, nếu không được thì mới từ ít đến
nhiều”( Việt Pháp bang giao, Huế 1950,tr 145)
Việc
điều đình đi đến kết quả ngoài dự kiến, làm cho thực dân hết sức ngạc
nhiên, vui mừng vì lúc đó quân đội Pháp đang gặp nhiều khó khăn: phong
trào kháng chiến của nhân dân ta đang phát triển mạnh, những tác động do
thất bại của Pháp ở Syrie, ở Mexique và làn sóng phản đối của nhân dân
tại đất nước họ.(điều này cho thấy, ta rất ít biết về họ, đây là một
trong nhiều điểm yếu kém của ta)
Chúng
ta không có tư liệu phản ảnh chi tiết về cuộc đàm phán này, nên cho đến
nay những nhà nghiên cứu vẫn băn khoăn không rõ chỉ trong hơn một ngày
“thương thuyết, phái bộ nhà Nguyễn đã vội chấp nhận những điều khoản
nặng nề như vậy.Linh mục Đặng Đức Tuấn, một thành viên trong đoàn, cũng
chỉ kể sơ lược:
Quan bèn nói với Tây dương
Xin hãy nghĩ lại khoản thường, khoản giao
Sao cho đừng thấp đừng cao,
Sao cho vừa phải lẽ nào mới an...
...Làm lời ba nước giao hòa,
Trong mười hai khoản, ngặt ba bốn điều
Quan ta thấy bớt đã nhiều,
Chịu đi cho rảnh về triều cho xong...
(Tham khảo:Lam Giang, Võ Ngọc Nhã- Đặng Đức Tuấn, tinh hoa công giáo ái quốcVN- Sài Gòn,1970)
Vậy
là Hòa ước Nhâm Tuất ra đời vào ngày 5-6-1862 ( thực chất đây là hàng
ước), nhường đứt ba tỉnh miền Đông Nam bộ, đảo Côn Lôn và bồi thường
chiến phí 2.880.000 lạng bạc cho bọn thực dân.
Ngay khi kết quả này loan truyền ra ngoài, nhân dân cả nước phản đối mạnh mẽ: "Phan, Lâm mãi quốc; triều đình khí dân", hay: “ Tan nhà cám nỗi cơn ly hận, cắt đất thương thay cuộc giảng hòa!”( thơ Phan Văn Trị)
Có thể vì thấy lòng dân quá tức giận, nên vua Tự Đức đã phải thốt lên theo, hòng khỏa lấp phần nào sự bất lực của mình: “
Thương thay con đỏ của lịch triều, nào có tội gì? Rất là đau lòng. Hai
viên này (Chỉ Giản & Hiệp) không những là người có tội với bản
triều, mà là người có tội của muôn đời vậy!” (Đại Nam thực lục chính biên ).
Vì
Gia định là đất khởi nghiệp của nhà Nguyễn và còn vì nỗi day dứt thấy
mình không làm tròn trách nhiệm của một ông vua, nên sang năm 1863, Tự
Đức sai Phan Thanh Giản
cùng Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản sang Pháp, để xin chuộc lại 3 tỉnh đã
trao cho họ. Chờ chực trên 2 tháng nhưng “mỡ đã vào miệng mèo” rồi nên
việc chẳng đâu ra đâu…
Tháng 1-1866, trước ý đồ lăm le chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây, Phan Thanh Giản tức tốc được bổ làm Kinh lược sứ trấn giữ vĩnh Long. Và vào ngày 20-6-1867, Pháp chiếm tỉnh này lần thứ hai, dẫn đến việc Phan Thanh Giản tuyệt thực rồi uống thuốc độc tự tử vào ngày 4-8-1867.
Và
dù thân xác ông đã vùi sâu dưới đáy mồ, nhưng buồn thay màn bi kịch
cuộc đời của một lão quan không khép lại.Có một thời gian khá dài, ông
đã bị vô số lời nguyền rủa thật thậm tệ…
Trích:
Năm 1962 - 1963, trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử bùng lên cuộc tranh
luận về PTG. Tháng 10/1963, tạp chí đã công bố bài kết luận của GS Trần
Huy Liệu dưới tiêu đề " Chúng ta đã nhất trí về việc nhận định Phan Thanh Giản".
Quan điểm chung của bài kết luận là lên án PTG " Phan trước
sau vẫn rơi vào thất bại chủ nghĩa, phản lại nguyện vọng và quyền lợi
tối cao của dân tộc, của nhân dân" , là phạm tội " dâng thành hiến đất
cho giặc" và từ đó phủ nhận tất cả " tư đức" của ông như " đức tính liêm
khiết" , " lòng yêu nước" , " thương dân" ... vì " công đức đã bại hoại
thì tư đức còn có gì đáng kể"
***
Lần
giở những trang sách kể lại trận đánh này, lòng tôi thật buồn.Với một
tướng lãnh dạn dày kinh nghiệm sa trường, một đại đồn lớn nhất nước ta
cùng với số binh mã vừa kể; trong khi quân Pháp do Charner chỉ huy chỉ
với 5000 quân & một ít chiến thuyền, chỉ trong 2 ngày đã phá tan tác
đại đồn ấy; mở màn cho một thời kỳ nô lệ gần 100 năm trong gông cùm bọn
thực dân.
Nhắc
để thấy trước dã tâm & sức mạnh của vũ khí hiện đại của giặc; quân
ta nhiều nhưng không tinh, vũ khí thì quá thô sơ, triều đình thì lúng ta
lúng túng, không đề ra được sách lược gì để phát huy sức mạnh của sự
đoàn kết, sự quyết tâm, nhất là không biết cùng nhân dân khởi động phong
trào kháng chiến toàn diện.
Sau
“vết nhơ lịch sử”(Ca Văn Thỉnh đã gọi hòa ước Nhâm Tuất như vậy), việc
tệ hại tiếp theo là triều đình đã ra lệnh bãi binh, lại còn giúp thực
dân truy lùng các thủ lĩnh kháng chiến.Do vậy, có thể nói rằng đây là
“một sự phản bội của Huế”(Trần Văn Giàu).
Có
nhiều sách sử biên chép về giai đoạn này thường có ý là: “Hòa ước Nhâm
Tuất, sự khởi đầu một thời kỳ nô lệ”. Nhưng theo tôi, viết như thế tức
gián tiếp đổ mọi trách nhiệm thất bại lên việc thương thuyết mà Phan Thanh Giản là người đứng đầu.
Thử
hỏi, trước lòng tham không đáy của giặc, trước sức mạnh của giặc; lệnh
cho Giản đến “nghị hòa”(nói trắng ra đây chỉ là chuyện nài nỉ, kỳ kèo,
trả giá của kẻ thua trận mà thôi); để đến khi nhận được kết quả thật tệ
hại, Huế lại kêu la om xòm; đó có phải là đặt “ một bàn thua trông
thấy”, là đặt việc “ngoài tầm tay”, là chuyện “khắc phục hậu quả”, để
rồi mọi thứ lỗi phải trút trên đầu một nho thần vốn đã già, đã nhiều
ngán ngại vì đã đôi lần tận mắt thấy sức mạnh của phương Tây hay sao?
Thế cho nên, tôi đã đặt tiêu đề phần này là : Đại đồn Chí Hòa thất thủ- sự khởi đầu một thời kỳ nô lệ.
Và tôi cũng chép ra luôn bài thơ của Phan Thanh Giản
làm sau khi sang Pháp xin chuộc đất; để thấy lòng ông vừa ngán ngại
phương Tây, vừa buồn bã thế nào khi đứng giữa một triều đình yếu kém, hủ
lậu, không chịu “đổi mới”…
Tự Thán
Từ ngày đi sứ tới Tây kinh,
Thấy việc Âu châu phải giật mình.
Kêu gọi đồng bang mau kịp bước,
Hết lời năn nỉ chẳng ai tin…
2.2. Giới trí thức lúc bấy giờ như Phạm Phú Thứ, Nguyễn Ðình Chiểu, Nguyễn Thông… rất thông cảm nỗi lòng cụ Phan:
Trước hết, xin được nhắc lại “lỗi thứ 7”:
Giữa
trưa đứng bóng một ngày tháng sáu năm 1867,quân Pháp gồm 1800 lính thủy
quân lục chiến, 16 chiến thuyền do Đô đốc De la Grandière chỉ huy từ
vùng biển phía Nam áp sát vào bờ.
Cập bến Vĩnh Long xong, De la Grandière cho mời Phan Thanh Giản
lên tàu hội đàm vào ban đêm, rồi bất ngờ đưa quân lên bờ chiếm lấy
thành ngay trong đêm ấy (19/6, có sách ghi ngày 20, người soạn ghi thêm)
tiến tới thôn tính luôn hai thành An Giang và Hà Tiên trong các ngày
tiếp đó.
Sự
biến này dẫn đến cái chết của vị tiến sĩ đầu tiên của Nam Bộ, cũng là
vị đại thần có trách nhiệm cao nhất ở ba thành miền Tây đó là Kinh lược
sứ Nam kỳ: Phan Thanh Giản.
Ông tuyệt thực 17 ngày, uống thuốc phiện hòa với giấm thanh để tự vẫn ngày 4/8 năm đó, gửi lại ấn tín, áo mão và tờ sớ tâu về triều đình..
Vua Tự Đức xuống chiếu kết tội ông rất nặng và tuyên án: "Tuy đã đắc nhất tử, nhưng cái chết vẫn không đủ che được tội. Vậy Phan Thanh Giản
(với Lâm Duy Hiệp) đã quá cố phải bị truy đoạt hết tước hàm, đục bỏ tên
trên bia tiến sĩ, để mãi cái án trảm hậu. Giết kẻ đã chết để răn người
đời sau vậy".
***
Bài điếu văn dài 99 câu của Phạm Phú Thứ, người đã cùng Phan Thanh Giản
đi sứ sang Pháp, có những câu như: “Lòng yêu nước sâu kín của Ngài đối
với nước nhà đáng khóc lên được.. Ngài thật là một người học rộng và có
phẩm cách hơn người. Có bao nhiêu người hiểu biết tình thế thật sư của
nước nhà? Khi nghĩ lùi về nguyên nhân của trận giặc này, tôi rất buồn nhớ đến ý chí của Ngài (không được thực hiện).
“Bề tôi giữ bờ cõi phải chết với bờ cõi. Bỏ sống(để) lấy nghĩa, giết mình(để) nên nhân, ấy là điều mà ông vẫn tin theo”
Cụ Ðồ Chiểu với ngòi bút “đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”, đã làm hai bài thơ điếu cụ Phan một bằng chữ nôm, một bằng chữ hán.
Ta nên nhớ cụ chỉ viết thơ điếu cho ba người: Trương Ðịnh, Phan Thanh Giản, Phan Ngọc Tòng. Xin trích:
Minh tinh chín chữ lòng son tạc
Trời đất từ rày mặc gió thu.
Trong bài “Văn tế lục tỉnh sĩ dân trận vong", ông Đồ Chiểu một lần nữa nêu cao Trương Định và Phan Thanh Giản:
"Phải trời cho mượn cán quyền phá lỗ,
Trương tướng quân còn cuộc nghĩa binh
Ý người đặng xem tấm bản phong trần,
Phan học sĩ hết lòng cứu nước".
Vào
năm 1867, Nguyễn Thông đuợc cử làm Án sát Khánh Hòa rồi Quảng Ngãi.
Thời gian này ông dâng sớ lên triều đình, để biện bạch cho Phan Thanh Giản, đồng thời dâng bốn bản điều trần về kế sách hưng thịnh quốc gia cho vua Tự Đức.
Tuy nhiên, tất cả đều không được chấp nhận vì sự gièm pha của các đại thần hủ bại trong triều.
2.3.Hiện nay, giới nghiên cứu nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản như thế nào?
Sau
loạt bài viết về ông vào những năm 1962 - 1963, trên Tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử, để rồi đi đến kết luận chê trách ông như tôi đã nêu trên, hiện
nay người ta đã phát hiện thêm nhiều tư liệu mới, giúp soi sáng, đánh
giá về nhân cách, sự nghiệp và bi kịch cuối đời của Phan Thanh Giản một cách công bằng hơn
A.Tại
TP HCM vào ngày 16/8/2003, tạp chí Xưa&Nay, Hội Khoa Học Lịch Sử
VN, Hội Ðồng Khoa Học Xã Hội phối hợp tổ chức tọa đàm khoa học “Thế Kỷ
XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản” đã phổ biến một bản văn nói:
“ý kiến đồng thuận chung là không thể coi Phan Thanh Giản là kẻ bán nước.Nhân cách và sự cống hiến của ông cho đất nước đã chiếm được tấm lòng ngưỡng mộ của nhân dân miền Nam”.
(Cuộc
tọa đàm này là cuộc trao đổi tiếp theo hai cuộc hội nghị về những năm
trước (1987 tại Bến Tre và 1996 tại Vĩnh Long) cũng nhằm đánh giá về
cụ.).
Trích lại đôi ba lời:
Nhà văn Sơn Nam kể lại, hồi xưa khi đi ngang qua miếu Văn Thánh học trò phải cúi đầu chào ông Phan và ông nói: “Tôi lại vào bên hông miếu Văn Thánh để cúi đầu trước bức ảnh cụ Phan, chớ nào ai vào chánh điện để chào ông Khổng, ông Tăng Sâm Tử Lộ”.
Nên nhà văn đề nghị: “trong chương trình sử học cho học sinh, nên có một bài nói về ông, đủ tình đủ lý”.
Theo Tiến sĩ Võ Xuân Ðàn, “Ở
Bến Tre, Vĩnh Long và cả Nam Kỳ lục tỉnh hàng trăm năm nay đã lưu
truyền những chuyện kể, những truyền thuyết, giai thoại nói lên chí hiếu
học, tinh thần yêu nước thương dân, cuộc sống thanh bạch, cần mẫn, liêm khiết, trung thực, khiêm nhường của Phan Thanh Giản và coi ông như một biểu tượng tốt đẹp và là niềm tự hào của quê hương xứ sở”.
Chẳng
những vậy, “hầu khắp các tỉnh ở Nam Kỳ không chỉ luôn luôn nhắc nhỡ,
nhân dân còn lập bàn thờ thờ ông tại một số đình, đền chùa, miếu. Không
ít nhà dân đã treo chân dung ông nơi trang trọng để thể hiện tình cảm
như đối với người thân đáng kính trong thân tộc”. …
Nhân đây người soạn nói thêm:
Ở dưới chân núi Ba Thê, huyện Thoại Sơn, An Giang cũng có đền thờ Phan Thanh Giản, trong thời gian sắp tới, người soạn sẽ đến đấy tìm hiểu, nếu có gì mới lạ hơn, sẽ bổ sung.
Và
trước đây, cố học giả Vương Hồng Sển ( xin nhớ ông này cũng là người
rất câu nệ) cũng đã ghi trong Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam những lời lẽ khâm
phục Phan Thanh Giản sau:
Sanh bình nếu Phan không
trong sạch thì không được Đồ Chiểu, là người câu nệ nhứt, trọng vọng
đến tột bực; một lẽ khác khi lựa người để thần chủ cho tiên đế; Thiệu
Trị, Tự Đức vẫn chọn Phan Thanh Giản
làm công việc danh dự này. Và cổ tục khi xong rồi, bao nhiêu văn phòng
qúi bảo trên ngự án thư đều biếu tặng ông, là có ý thưởng cho người liêm
khiết…
Ở một sách khác, học giả Vương còn nhận xét rất hóm hỉnh rằng:
“bấy lâu nay (1990), tôi nghe đầy tai lời trách quan Phan làm
cho mất nước và vua Tự Ðức đứng đầu tội ấy. Thấp cổ bé miệng, tôi có
dại gì cãi họ duy trong thâm tâm riêng tưởng họ chưa tới mắt cá quan Phan”.
(
trích trong sổ tay, tôi không nhớ ở sách nào của ông. Nhờ google thì
thấy ghi là trong cuốn Hơn nữa đời hư, chương “Trở lại, thử tìm hiểu
cảnh ngộ quan Phan khi đi sứ sang Pháp”.Ở nhà tôi có cuốn ấy, bản in năm 1992 của nxb Tổng Hợp TP HCM, nhưng tra hoài không thấy).
B.Từ nước Pháp, bà Phan Thị
Minh Lễ, tiến sĩ sử học Đại học Paris VII, đã sử dụng nhiều nguồn tài
liệu từ kho lưu trữ của Bộ Ngoại giao Pháp, từ châu bản triều Tự Đức;
thư từ riêng của viên quan Pháp De la Grandière để cùng giáo sư Pierre
Ph.Chanfreau đồng biên khảo công trình: Những năm cuối đời của Phan Thanh Giản, nhà yêu nước và người mở đường cho một nước Việt Nam hiện đại (Phan Thanh Gian, Patriote et Précurseur du Vietnam moderne, ses dernirères années 1862 - 1867) xuất bản tại Pháp cuối năm 2002
Nội
dung sách cho thấy người Pháp ( cụ thể là viên quan Pháp De la
Grandière) rắp tâm chiếm đóng ba tỉnh miền Tây và bí mật sắp đặt như thế
nào.
Cuối cùng Tác giả cũng đi đến kết luận là: Phan Thanh Giản không phải là một kẻ bán nước, phản quốc và phản dân tộc.
C.Giáo sư Phan Huy Lê là một chuyên gia hàng đầu về lịch sử Việt Nam đã có một bài viết hay về đề tài này, xin được tóm gọn như sau:
Ngay từ 1867, khi Phan Thanh Giản
tự kết thúc cuộc đời bằng chén thuốc độc, thì từ trong triều cho đến
trong dân gian, đã có những thái độ nhìn nhận và sự đánh giá rất khác
nhau về ông.
Vua
Tự Đức và triều đình đổ hết tội lỗi cho ông về việc để mất Nam Kỳ lục
tỉnh, kết tội ông "xét phải tội chết, chưa đủ che được tội" và nghị án
"truy đoạt lại chức hàm và đẽo bỏ tên ở bia tiến sĩ, để mãi cái án trạm
giam hậu".
Ngay câu nói "Phan,
Lâm mãi quốc; triều đình khí dân" mà bao nhiêu tác giả đã dẫn ra như
một minh chứng hùng hồn về thái độ lên án của nhân dân đối với triều
đình Nguyễn và Phan Thanh giản, thì cho đến nay, nguồn gốc và xuất xứ vẫn chưa rõ.
Phải
chăng đó là câu đề cờ của Trương Định khi phất cờ khởi nghĩa vừa chống
Pháp xâm lược vừa chống triều đình đầu hàng, nhưng như vậy tại sao không
thấy ghi chép lại trong những tác phẩm viết về Trương Định của những
tác giả đương thời như Nguyễn Thông?
Hay là câu này do nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục đưa ra năm 1907 cũng để nhằm lên án?
Dĩ
nhiên sự ra đời và lưu truyền câu nói đó dù trong phạm vi nào, cũng đã
phản ánh một thái độ phê phán ông của một số người nhất định.Vì thế, tìm
hiểu nguồn gốc và xuất xứ của câu nói vẫn cần đặt ra.
Rồi
trong thơ văn, trong các công trình nghiên cứu, chúng ta luôn luôn bắt
gặp những nhận xét và đánh giá rất trái ngược nhau về nhân vật Phan Thanh Giản.
Như vào năm 1962 - 1963, trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử bùng lên cuộc tranh luận về Phan ( người soạn đã nói ở phần trên)
Nhưng ngay sau khi cuộc thảo luận kết thúc với kết luận lên án và phê phán nặng nề Phan Thanh giản,
thì GS Ca Văn Thỉnh với tư cách là một người con của Bến Tre, của Nam
Kỳ lục tỉnh tỏ thái độ băn khoăn và không đồng tình.
So với cuộc hội thảo năm 1962 - 1963 và những công trình nghiên cứu trước đây, chúng ta đã cố mở rộng thêm các nguồn tư liệu
Để sử dụng tốt chúng, có mấy việc cần lưu ý:
Sử
dụng tư liệu của chính sử triều Nguyễn, nhất là quan hệ giữa ông với
triều Nguyễn trong trách nhiệm để mất 6 tỉnh Nam Kỳ cũng cần phân tích,
giám định.
Đại
Nam thực lục ghi chép việc ký hoà ước Nhâm Tuất 1862 như là trái ý Tự
Đức và bị nhà vua lên án: "Thương thay con đỏ của lịch triều, nào có tội
gì? Rất là đau lòng. Hai viên này (Phan Thanh Giản
và Lâm Duy Thiếp) không những là người có tội của bản triều mà là người
có tội của muôn nghìn đời vậy", "Nghị hoà là thất cơ, lỗi ấy do hai
viên kia (Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp)".
Nhưng
cũng chính bộ sử này cho biết rõ, lúc đó Tự Đức đã xác lập đường lối
"chủ hoà" và khi cử PTG làm Chánh sứ toàn quyền đại thần "nghị về việc
hoà" thì vua tôi đã bàn định kỹ các khả năng kể cả việc cắt đất và bồi
thường tiền.
Nếu Phan Thanh Giản
tự tiện ký hoà ước trái ý vua thì sao Tự Đức không bắt tội, mà lại cử
ông làm Kinh lược sứ 3 tỉnh miền Tây và tiếp tục trọng trách giao thiệp
với Pháp.
Và
năm 1863 chính Tự Đức ra lệnh làm lễ đại triều ở điện Thái Hoà tiếp sứ
thần hai nước Pháp, Y Pha Nho để trao đổi văn bản hoà ước do chính tay
vua phê chuẩn.
Đó phải chăng những “lắt léo” trong chính sử triều Nguyễn này nhằm biện hộ cho Tự Đức và đổ tội cho Phan?
Sử
dụng tư liệu của Pháp, nhất là những tư liệu do những viên quan cai trị
Pháp viết, chúng ta càng phân tích, đối chiếu và giám định kỹ, không
những vì lối trình bày khuếch “đại chiến công" của họ, mà có khi còn vì
những mưu đồ chính trị sâu xa, thâm hiểm…
Như trong cuộc hội thảo, có tác giả nêu lên nghi vấn về bài hịch kêu gọi đầu hàng của Phan Thanh Giản
với lời "ta đã biên thư cho tất cả các quan và tất cả các vị chỉ huy
quân sự là phải bẻ gãy giáo mác và trao lại thành luỹ mà không giao
chiến", và thư của ông gửi cho La Grandière trước lúc tự tử.
Đó là những tư liệu mà nhiều nhà nghiên cứu đã sử dụng, nhưng chưa ai đặt vấn đề thẩm định tính xác thực và độ tin cậy của nó.
Việc quân Pháp hạ thành Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên tháng 6/1867 cũng có chỗ khác nhau giữa một số tư liệu của Pháp và của ta.
Quan chức Pháp như La Grandière, Paulin, ẸLuro... miêu tả như Phan Thanh Giản đã trao thành Vĩnh Long cho Pháp, rồi còn viết thư bắt các thành An Giang, Hà Tiên cũng phải nộp thành cho thực dân.
Nhưng
tư liệu của ta như Đại Nam thực lục và nhất là Châu bản triều Nguyễn
lại cho thấy đó là một thủ đoạn của quân Pháp, lợi dụng thái độ chủ hoà
của Phan Thanh Giản và những sơ hở của quân ta, để bất ngờ chiếm thành:
Chúng đem chiến thuyền đến áp sát thành Vĩnh Long, đưa thư bắt nhường ba tỉnh miền Tây, buộc Phan Thanh Giản xuống tàu thương nghị rồi khi ông trở lại, chúng kéo theo và bất ngờ đột nhập chiếm thành Vĩnh Long.
Việc
chiếm thành An Giang và Hà Tiên cũng diễn ra gần như thế. Đó là lý do
chúng chiếm được ba thành quá dễ dàng và không tốn một viên đạn.
Tất
nhiên để mất ba thành trên là trách nhiệm không thể thoái thác của ông
và các tướng giữ thành, nhưng dâng thành đầu hàng giặc hay bị lợi dụng
và lừa dối để mất thành lại là hai việc khác nhau liên quan đến phẩm giá
con người…
Phần III
III.Phân Tich thêm mối quan hệ giữa ông đối với triều Nguyễn:
Trước
họa xâm lược của thực dân Pháp đến từ một nước tư bản phương Tây, từ
một nền văn minh công nghiệp với nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh
tối tân, với lối đánh chưa từng có trong binh thư phương Đông, vua tôi
triều Nguyễn tỏ ra rất bị động, lúng túng.
Thực
tế, trong triều người thì "chủ chiến", người thì "chủ hoà", người thì
"lo chống giữ lâu dài", người thì "chẳng chiến cũng chẳng hoà" và không
ít người chẳng đưa ra được chính kiến gì.
Luận thêm để thấy:
"Chủ
chiến" nhưng nếu chỉ biết đánh, không biết dựa vào dân để đánh lâu dài
và kết hợp lo canh tân để tăng cường tiềm lực đất nước thì cũng khó giữ
được nước.
"Chủ
hoà" mà chỉ lo thương thuyết, cầu xin giặc, không dám dựa vào dân,
không lo canh tân đất nước thì chỉ dẫn đến thất bại và đầu hàng.
Cùng theo đó, là hệ tư tưởng Nho giáo
bảo thủ, triều Nguyễn tự giam mình, quay lưng lại mọi trào lưu tiến hoá
trên thế giới, khước từ mọi đề nghị canh tân đất nước của những trí
thức yêu nước cấp tiến.
Và có thể nói: vua quan nhà Nguyễn muốn đổ hết trách nhiệm và tội lỗi cho Phan Thanh Giản, hòng che giấu phần nào những yếu kém về đường lối cai trị & phương thức chiến đấu của mình.
Nhưng
oái oăm là ngay trong chính sử triều Nguyễn thôi, cũng đủ cho chúng ta
khẳng định rằng ông là người đồng tình và cũng là người thực hiện một
chủ trương đã được hoạch định từ trước của triều đình thời Tự Đức.
Khi
hoà ước được ký kết tại Sài Gòn, tuy chưa được nhà vua phê chuẩn; Tự
Đức gần như là hớn hở nên ung dung nói rằng:“ Hòa nghị đã thành, có thể
ngồi mà đến Phú cường”, ngay sau khi mắng Giản & Hiệp là tội nhân thiên cổ, thì thật là không sao hiểu nỗi.
Đình
thần, lúc bấy giờ có một số người phản đối như Trần Hi Tăng (ông tam
nguyên Vị Xuyên này được lệnh vào trấn nhậm Vĩnh Long, ông Trần vì bất
bình hòa ước, không chịu đi nên bị bức phải uống thuốc độc mà chết),
nhưng đa phần cũng chỉ có thể nhận xét và tâu lên vua :
"về khoản cắt đất bồi ngân, hai viên ấy đã làm, phần nhiều
chưa hợp. Nhưng điều ước mới định, nếu vội sửa đổi ngay, sợ họ còn tức
khí", và đề nghị "công việc Nam Kỳ nên chuyển uỷ cho Phan Thanh Giản,
Lâm Duy Thiếp đứng làm".
Trở lại việc Phan Thanh Giản để mất 3 tỉnh miền Tây năm 1867, trách nhiệm của ông về nguyên tắc có phần nặng
nề hơn vì với cương vị Vĩnh Long - An Giang - Hà Tiên kinh lược sứ, ông
có trách nhiệm giữ đất và là người được toàn quyền thay mặt nhà vua xử
lý mọi việc trong vùng.
Nhưng
trên thực tế, chủ trương "cầu hoà" và Hoà ước 1862 mà Tự Đức đã phê
chuẩn năm 1863, đã đặt Phan Thanh Giản vào nhiệm vụ giữ đất 3 tỉnh miền
Tây vào tình thế cực kỳ khó khăn đến bế tắc.
Về
vị trí địa lý, 3 tỉnh miền Tây hoàn toàn bị cô lập, bị tách ra khỏi địa
bàn cả nước bởi 3 tỉnh miền Đông đã ở trong tay quân Pháp.
Hơn
thế nữa, trung thành theo Hoà ước 1862 và nhất là sợ người Pháp "nghi
ngại", Tự Đức "đem sao lục 12 điều ước cũ, đưa đi treo dán để hiểu bảo
cho sĩ dân đều biết, khiến đều yên ở làm ăn", rồi còn "xuống dụ cho cho
tỉnh thần ba tỉnh sức khắp các hạt biết, mà các quan phủ huyện một khi
trông thấy, tức thì bắt ngay đem giải, nhà dân có ai chứa chấp cũng bắt
tội như kẻ phạm tội" .
Tự Đức còn nhiều lần ra lệnh "hưu binh", "giải giáp", sai Phan Thanh Giản dụ Trương Định, giải tán nhiều lực lượng nghĩa binh.
Như
vậy, bi kịch của Phan Thanh Giản là một mặt ông cùng phe "chủ hoà", rất
mực trung thành với nhà vua; mặt khác ông lại nặng lòng với dân với
nước.
Mâu thuẫn đó đã đẩy ông đến chỗ bế tắc và chỉ còn biết lấy cái chết để kết thúc cuộc đời và bày tỏ nỗi lòng của mình.
Có lẽ nhóm tác giả Đại Nam chính biên liệt truyện phần nào
đã thấu hiểu lòng ông khi nhận xét :" Thanh Giản là người ngay thực,
giữ lòng liêm khiết, làm quan cần mẫn, thận trọng, gặp việc dám nói.
Trải thờ 3 triều, vẫn được yêu quý. Đến khi mang cờ tiết đi Nam, thế
không làm sao được, biết tội tự uống thuốc độc chết. Thực là ở vào chỗ
người ta khó xử. Xem tờ sớ để lại thì lòng trung ái chứa chan ở ngoài
lời nói".
Sau
này hiểu rõ vụ việc hơn nên vào năm 1886, ông được vua Đồng Khánh khai
phục nguyên hàm Hiệp tá đại học sĩ và cho khắc lại tên ông ở bia Tiến
sĩ...
Nói thêm:
Khi
sắp mất, Phan Thanh Giản có dặn con cháu, không được cộng tác với giặc
Pháp và tự tay viết mấy dòng chữ trao cho người nhà: "Minh tinh thỉnh
tỉnh, nhược vô, ưng thư: Hải nhai lão thư sinh tính Phan chi cữu" (Tấm
triệu (ghi chức tước của người chết đi theo sau quan tài) nên bỏ, nếu
không thì chỉ cần ghi: linh cữu người học trò già họ Phan ở nơi góc biển).
Hai
con trai của ông, Phan Tôn (1837-1893, tự Quý Tướng), Phan
Liêm(1833-1896 tức Phan Thanh Liêm), nổi lên chống Pháp tại tỉnh Vĩnh
Long, Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng… lập thành nhóm Cần Vương từ tháng 7
đến tháng 11/1867; khi bị dẹp hai ông bỏ trốn ra Bình Thuận.
Người ta lại gặp hai ông bên cạnh Nguyễn Tri Phương ở Hà Nội, rồi bị bắt làm tù binh ngày 20/11/1873, sau hòa ước Giáp Tuất hai ông được trao trả cho triều đình Huế, rồi được triều đình trọng dụng…
Phần mộ
hai ông Phan Liêm và Phan Tôn cùng được xây dựng trong chùa Trà Am,
thôn Tư tây, xã Thủy An, Thành phố Huế hiện nay, cách chợ Đông Ba khoảng
15 km, sát bên núi…
IV.Dẫn hai bài thơ và một nhận xét để thay cho lời kết :
Bài thơ nôm cuối cùng Tuyệt cốc chính
là tâm trạng đầy bi kịch của ông, một vị đại thần đầu bạc, suốt đời lận
đận trong vòng trói buộc của hai chữ "trung quân", đồng thời cũng là
người thực thi đường đối “chủ hòa” mà cứ đinh ninh là mình yêu nước,
thương dân một cách đúng đắn.Lúc cuối cùng, ông mới thấy van lơn với
giặc là vô hiệu, vô cùng tai hại:
Trời thời, đất lợi, lại người hoà
Há dễ ngồi coi, phải nói ra
Lăm trả ơn vua, đền nợ nước
Ðành cam gánh nặng, ruỗi đường xa
Lên ghềnh, xuống thác thương con trẻ
Vượt biển, trèo non cám phận già
Cũng tưởng một lời an bốn cõi
Nào hay ba tỉnh lại chầu ba!
Nhà
thơ lớn đương thời Nguyễn Đình Chiểu tỏ thái độ thương tiếc và trân
trọng đối với ông Phan Thanh Giản qua bài thơ điếu, mà mỗi câu chữ đều
rất thắm đượm nghĩa tình:
Non nước tan tành hệ bởi đâu
Dàu dàu mây bạc cõi Ngao Châu
Ba triều công cán vài hàng sớ
Sáu tỉnh cương thường một gánh thâu
Trạm Bắc ngày chiều tin điệp vắng
Thành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu
Minh sinh chín chữ lòng son tạc
Trời đất từ đây mặc gió thu!
Từ điển văn học (Nhà xuất bản KHXH, H.N, 1984, tập II, tr. 202 ) nhận xét về Phan Thanh Giản như sau:
"Nhìn
chung, con người Phan Thanh Giản trong thơ là con người giàu tình
cảm... Ở lĩnh vực khác, thơ văn Phan Thanh Giản cho thấy một nhà nho
chính thống "an bần lạc đạo", sống có tình với bạn bè, anh em, biết coi
"trí quân trạch dân"( vừa giúp vua, vừa làm cho dân được nhờ) là mục
đích chân chính của đời mình.
Tuy nhiên, con người đó, về một phương diện khác, lại là người buồn nản trước thế cuộc, có phần sợ
phục trước văn minh tư bản, và từ sợ phục đi đến nhẫn nhục, rồi đành
khuất phục bọn cướp nước. Bài thơ nôm cuối cùng Tuyệt cốc có thể là bài
thơ tập hợp đầy đủ mọi mâu thuẫn trong con người Phan Thanh Giản.
Bùi Thụy Đào Nguyên, biên soạn
Long Xuyên, 5-9 /11/2007
Ảnh
trên: Ngày 16/4/1863,thiếu tướng Bonard và đại tá I Pha Nho Phalanca
đến Huế, được vua Tự Đức đón tiếp trọng thể; để cùng làm lễ ký công nhận
Hòa ước Nhâm Tuất (theo Nguyễn Phan Khoang, còn Trọng Kim lại cho rằng
vào tháng 2/1863).Điều này càng cho thấy Huế rất nhu nhược và nếu cho
rằng Phan Thanh Giản tự ý làm sai trái thì Huế vội phê chuẩn làm gì…
Tranh dưới: rất có thể đây là tranh mô tả cảnh ký hòa ước Nhâm Tuất ngày 05-06-1862 tại Sài Gòn.
Tài liệu sử dụng:
Ngoài những tài liệu tôi đã nêu trong bài, tôi còn nhờ:
- Tự điển wikipedia tiếng Việt, mục Phan Thanh Giản
-Bài viết: Phan Thanh Giản với bản án được tuyên sau cái chết của Giao Hưởng, báo Thanh Niên 06/09/2006.
-Tổng tập của G.s Trần Văn Giàu, nxb Quân đội nhân dân,năm 2006
-Phan Thanh Giản con người, sự nghiệp và bi kịch lịch sử của G.s Phan Huy Lê.
-Việt Nam thế kỷ XIX, của Nguyễn Phan Quang, nxb TP HCM, năm 2002
-Thế kỷ XXI nhìn về cụ Phan, bài của Phan Thanh Tâm đăng trên web, không nhớ địa chỉ.
- Mấy câu thơ dùng dẫn vào bài của tác giả Đông Tà, tôi trích lục nơi web Thi Viện.
-Ảnh: mộ của ông. ở ấp Thạnh Nghĩa, xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri,( Bến Tre), gần mộ thầy Võ Trường Toản
NhatMinhTun
19-08-13, 02:58 PM
BÀN VỀ LÁ SỐ CỤ PHAN THANH GIẢN
Trong mấy ngày vừa qua khi xem lại các lá số Danh nhân và cổ nhân trong cuốn "Những Lá số Danh Nhân và Cổ Nhân" của cụ Thiên Lương tôi bị ám ảnh nhiều bởi lá số của cụ Phan Thanh Giản. Theo đó; cụ Phan Thanh Giản sinh ngày 12 tháng 10 năm Bính Tình giờ Tị với lá số THẤT SÁT cự Ngọ. Bài viết phân tích về lá số của cụ Phan Thanh Giản đã được cụ Thiên Lương phân tích, làm rõ tính chất con người cụ Phan đồng thời minh chứng cho tâm lòng yêu nược, vì dân của cụ thông qua lá số Tử Vi. Tuy nhiên, khi xem xét lại toàn bộ các sự kiện liên quan đến cụ Phan Thanh Giản tôi nhân thấy có nhiều điểm không phù hợp với lá số của Cụ Phan Thanh Giản cũng như hoàn cảnh của cụ trong cả cuộc đời khi dùng giờ Tị. Tôi đã cố gắng gò ép những phân tích để khơp với lá số giờ Tị nhưng thật khó phù hợp với cụ. Do vậy tôi mạo muội định lại một giờ khác để lấy lá số của cụ Phan Thanh Giản.
Trước khi đi vào phân tích lá số cụ Phan Thanh Giản theo giờ được người viết mạo muội định lại. Các bạn cần các thông tin về Cụ để có thể xem xét, nghiên cứu qua lá số. Người viết đồng thời sẽ đăng bài luận của Cụ Thiên Lương về cụ Phan Thanh Giản.
I.TIỂU SỬ, CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỤ PHAN THANH GIẢN
Cụ Phan Thanh Giản (chữ Hán (http://vi.wikipedia.org/wiki/Chữ_Hán): 潘清簡; 1796 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1796) - 1867 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1867)), tự Tĩnh Bá, Đạm Như (淡如), hiệu Ước Phu, Lương Khê; là một danh sĩ, một đại thần triều Nguyễn (http://vi.wikipedia.org/wiki/Nhà_Nguyễn) trong lịch sử (http://vi.wikipedia.org/wiki/Lịch_sử) Việt Nam (http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam).
1.1. THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP
Phan Thanh Giản xuất thân trong một gia đình nghèo khổ. Tương truyền tổ phụ Phan Thanh Giản là Phan Thanh Tập, hiệu Ngẫu Cừ, sống thời nhà Minh (http://vi.wikipedia.org/wiki/Nhà_Minh). Sau khi nhà Minh (http://vi.wikipedia.org/wiki/Nhà_Minh) bị nhà Mãn Thanh (http://vi.wikipedia.org/wiki/Nhà_Thanh) tiêu diệt, Phan Thanh Tập di cư sang phủ Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định (http://vi.wikipedia.org/wiki/Bình_Định) (Việt Nam (http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam)). Nơi đây ông cưới vợ tên Huỳnh Thị Học, sinh được một trai tên là Phan Thanh Ngạn tục gọi là Xán.
Năm 1771 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1771), gia đình ông Ngạn vào Nam tạm cư ở Thang Trông, thuộc tỉnh Định Tường (http://vi.wikipedia.org/wiki/Định_Tường) Sau dó lại dời về Mân Thít, trấn Vĩnh Thanh (thuộc Vĩnh Long (http://vi.wikipedia.org/wiki/Vĩnh_Long) ngày nay), rồi lại dời về ở huyện Bảo An, phủ Hoằng Trị, cũng thuộc tỉnh Vĩnh Long (http://vi.wikipedia.org/wiki/Vĩnh_Long). Cuối cùng ông Ngạn đến lập nghiệp tại thôn An Hòa, làng Tân Thạnh, huyện Vĩnh Bình (http://vi.wikipedia.org/wiki/Vĩnh_Bình), phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thạnh (http://vi.wikipedia.org/wiki/Vĩnh_Thạnh)(nay là xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri (http://vi.wikipedia.org/wiki/Ba_Tri), tỉnh Bến Tre (http://vi.wikipedia.org/wiki/Bến_Tre)).
Ở đây, ông cưới người vợ tên Lâm Thị Bút. Ngày 11 tháng 11 (http://vi.wikipedia.org/wiki/11_tháng_11) năm 1796 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1796), bà hạ sinh được một trai tên Phan Thanh Giản. Năm Phan Thanh Giản lên 7 (1802 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1802)), thì mẹ qua đời, cha cưới người vợ nữa tên Trần Thị Dưỡng để có người chăm sóc con. Bà mẹ kế này rất thương yêu con chống. Đến tuổi đi học, ông theo học với nhà sư Nguyễn Văn Noa ở chùa làng Phú Ngãi.
Năm 1815 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1815), vì sự cáo gian của kẻ có thù riêng với gia đình, cha Phan Thanh Giản lúc ấy đang làm Thủ hạp (một viên chức nhỏ), phải ngồi tù.
Nóng lòng vì cha bị hàm oan, ông đệ đơn lên Hiệp trấn Lương (không rõ họ) ở Vĩnh Long (http://vi.wikipedia.org/wiki/Vĩnh_Long) xin được thay cha vào tù. Cảm động trước tấm lòng hiếu thảo, viên quan này đã cho ông ở gần nơi cha bị giam cầm, để vừa trao giồi kinh sử, vừa có cơ hội thăm cha mỗi ngày. Sau khi cha được mãn tù, nghe lời Hiệp trấn Lương, Phan Thanh Giản ở lại Vĩnh Long (http://vi.wikipedia.org/wiki/Vĩnh_Long)để tiếp tục học và chờ đợi khoa thi. Tại đây, ông gặp một người đàn bà nhân hậu tên Ân. Bà này đã giúp ông tiền và cơm, áo...để tiếp tục theo đuổi việc đèn sách.
1.1.1. Ra làm quan
Năm 1825 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1825), ông đậu Cử nhân khoa Ất Dậu (http://vi.wikipedia.org/wiki/Ất_Dậu). Sau đó một năm, ông đậu đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ (http://vi.wikipedia.org/wiki/Tiến_sĩ) khoa Bính Tuất (http://vi.wikipedia.org/wiki/Bính_Tuất) niên hiệu Minh Mạng (http://vi.wikipedia.org/wiki/Minh_Mạng) thứ 7 (1826 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1826)), vào năm 30 tuổi. Ông là người đậu Tiến sĩ (http://vi.wikipedia.org/wiki/Tiến_sĩ) khai khoa ở Nam bộ (http://vi.wikipedia.org/wiki/Miền_Nam_(Việt_Nam)).
Từ đấy, ông làm quan trải ba triều, là Minh Mạng (http://vi.wikipedia.org/wiki/Minh_Mạng), Thiệu Trị (http://vi.wikipedia.org/wiki/Thiệu_Trị) và Tự Đức (http://vi.wikipedia.org/wiki/Tự_Đức).
Dưới triều Minh Mạng (http://vi.wikipedia.org/wiki/Minh_Mạng), ông lần lượt giữ các chức vụ: Hàn lâm viện biên tu, Lang trung bộ Hình (http://vi.wikipedia.org/wiki/Bộ_Hình) (1827 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1827)), Tham hiệp tỉnh Quảng Bình (http://vi.wikipedia.org/wiki/Quảng_Bình) (1828 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1828)), Hiệp trấn tỉnh Quảng Nam (http://vi.wikipedia.org/wiki/Quảng_Nam) (1828 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1828)), Quyền nhiếp Tham hiệp tỉnh Nghệ An (http://vi.wikipedia.org/wiki/Nghệ_An) (1829 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1829)), Lễ bộ tả thị lang và tham gia nội các (1830), Hàn lâm viện kiểm thảo sung Nội các hành tẩu và Hộ bộ viên ngoại lang (1832 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1832)), Đại lý tự khanh sung Cơ mật viện đại thần (1834 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1834)), Kinh lược trấn Tây (1835 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1835)), Tuần phủ Quảng Nam (http://vi.wikipedia.org/wiki/Quảng_Nam) (1836 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1836)), Thống chánh sứ và Phó sứ rồi Hộ bộ thị lang (1839 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1839)). Dưới triều Minh Mạng, ông đã ba lần bị giáng chức, trong đó có lần ông phải làm "Lục phẩm thuộc viên", tức giữ việc quét dọn, sắp đặt bàn ghế ở chốn công đường (1836 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1836)).
Dưới triều Thiệu Trị (http://vi.wikipedia.org/wiki/Thiệu_Trị), ông làm Phó chủ khảo trường thi Thừa Thiên (http://vi.wikipedia.org/wiki/Thừa_Thiên_-_Huế) (1840 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1840)), Phó đô ngự sử Đô sát viện (1847 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1847)).
Dưới triều Tự Đức (http://vi.wikipedia.org/wiki/Tự_Đức), ông phụ trách giảng dạy và điều khiển trường Kinh Diên, Thượng thư bộ Lại (http://vi.wikipedia.org/wiki/Bộ_Lại), sung Cơ mật viện đại thần (1849 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1849)). Năm1850 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1850), ông được cử vào trấn nhậm miền Tây Nam Kỳ (http://vi.wikipedia.org/wiki/Nam_Kỳ) cùng với tướng Nguyễn Tri Phương (http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn_Tri_Phương). Sau đó, được phong làm Kinh lược sứ Nam Kỳ (http://vi.wikipedia.org/wiki/Nam_Kỳ).
Ông được vua Tự Đức giao làm Tổng tài Quốc sử quán (http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=T%26%237893%3Bng_t%E0i_Qu%26%23788 9%3Bc_s%26%237917%3B_qu%E1n&action=edit&redlink=1) coi việc biên soạn bộ Khâm định Việt sử Thông giám cương mục (http://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%A2m_%C4%91%E1%BB%8Bnh_Vi%E1%BB%87t_s%E1%BB%A D_Th%C3%B4ng_gi%C3%A1m_c%C6%B0%C6%A1ng_m%E1%BB%A5c ) phụ tá có một Phó Tổng tài, 6 Toản tu góp tài liệu, viết lên, 6 Khảo hiệu xét lại và 6 Đằng tả viết chữ ngay ngắn. Sách soạn trong 3 năm 1856-1859, dâng lên Tự Đức coi lại các lần 1871, 1872, 1876, 1878 và có lời phê bên trên.
2481
Chân dung Phan Thanh Giản
NhatMinhTun
19-08-13, 03:02 PM
1.1.2.Thương nghị với người Pháp
Năm 1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha đổ bộ và tấn công tại cửa biển Đà Nẵng rồi lần lượt đánh chiếm các tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Ông Phan Thanh Giản với vai trò là Chánh sứ và Lâm Duy Hiệp là Phó sứ được cử đi điều đình với Pháp, sau đó đại diện cho triều đình Tự Đức ký kết hiệp ước hòa bình và hữu nghị Hòa ước Nhâm Tuất ngày 5 tháng 6 năm 1862 tại Sài Gòn.
Hiệp ước gồm 12 khoản, theo đó, ba tỉnh Biên Hòa Gia Định, Định Tường và đảo Côn Lôn (Côn Đảo) được nhượng cho Pháp (Khoản 3 Hiệp ước); triều đình phải trả cho Pháp và Tây Ban Nha một khoản bồi thường chiến phí là 4 triệu piastre trong 10 năm, mỗi năm 400.000 đồng (quy ra bạc là 288 nghìnlạng-Khoản 8 hiệp ước); đổi lại, người Pháp sẽ trả lại tỉnh Vĩnh Long cho triều đình Huế, nhưng kèm theo điều kiện là triều đình phải có biện pháp chấm dứt các cuộc khởi nghĩa chống lại người Pháp ở các tỉnh (Khoản 11 hiệp ước). Do hành động này mà dân gian có câu truyền "Phan Lâm mãi quốc, triều đình thí dân" (Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp bán nước; triều đình bỏ dân chúng). Theo nhà sử học Phan Huy Lê, nguồn gốc và xuất xứ của câu này chưa được làm rõ, theo ông câu này không thấy ghi chép lại trong những tác phẩm viết về Trương Định của những tác giả đương thời, như Nguyễn Thông.
Tuy việc thương nghị với phía Pháp, vua Tự Đức có cho ông tùy nghi tình thế mà định đoạt nhưng về việc cắt đất, nhà vua có căn dặn Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp ráng sức chuộc lại ba tỉnh với giá 1.300 vạn lạng, còn nếu phía Pháp đòi cắt đất luôn thì kiên quyết không nghe, nhưng Phan Thanh Giản đã phải cắt đất lại còn bồi thường chiến phí. Do đó mà hai ông khi trở về đã bị quở trách nặng nề.
Việc chuộc ba tỉnh không thành, Phan Thanh Giản bị cách lưu làm Tổng đốc Vĩnh Long, nhưng rồi lại được cử làm Chánh sứ (Phó sứ là Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản) sang nước Pháp để điều đình một lần nữa về việc chuộc lại ba tỉnh miền Đông (1863), nhưng cũng không đạt được kết quả. Năm 1865, ông được phục chức Hiệp biện đại học sĩ, Hộ bộ thượng thư, sung Kinh lược sứ ba tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) và được tha tội cách lưu.
Ngày 20 tháng 6 năm 1867, Pháp đánh chiếm Vĩnh Long (vốn đã được trao trả triều đình Huế ngày 25 tháng 5 năm 1863), yêu cầu ông gửi mật thư cho thủ thành An Giang và Hà Tiên buông súng đầu hàng. Trước sức mạnh áp đảo của Pháp về mặt quân sự, biết thế không thể giữ nổi, nên để tránh đổ máu vô ích, Phan Thanh Giản đã quyết định trao thành, không kháng cự, với yêu cầu người Pháp phải bảo đảm an toàn cho dân chúng. Thế là chỉ trong 5 ngày (20-24 tháng 6 năm 1867), Pháp chiếm gọn ba tỉnh miền Tây không tốn một viên đạn. Sau khi thành mất ông tuyệt thực suốt 17 ngày, rồi uống thuốc độc tự tử vào ngày 4 tháng 8 năm 1867, hưởng thọ 72 tuổi.
Đền thờ Phan Thanh Giản hiện ở ấp Thạnh Nghĩa, xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, Bến Tre. Và từ rất lâu, nhân dân ở vùng núi Ba Thê, thuộc huyện Thoại Sơn tỉnh An Giang vẫn coi ông là một vị thần Thành Hoàng. Ngoài ra ông còn được thờ tại Văn Thánh Miếu Vĩnh Long.
1.2. CÁC LẦN THĂNG GIÁNG TRONG SỰ NGHIỆP CỦA CỤ PHAN THANH GIẢN
Đời làm quan của Phan Thanh Giản, từ năm 1826 đến năm 1867, trải qua nhiều thăng trầm: ông đã bị vua thăng chức và giáng chức nhiều lần. Cụ thể:
- Năm Bính Tuất 1826 ông giữ chức vị đầu tiên là "chánh thất phẩm";
- Năm Đinh Hợi 1827 ông được thăng 3 cấp quan lên hàng "chánh tứ phẩm";
- Năm Kỷ Sửu 1829 lên "chánh tam phẩm";
- Năm Tân Mão 1831 được thăng "tòng nhị phẩm". Cũng trong năm này ông bị giáng chức giáng xuống cấp quan gần nhỏ nhất "chánh cửu phẩm", vì vốn là một quan văn mà phải lãnh lệnh cầm quân đánh giặc nên ông đã thua trận.
- Năm Nhâm Thìn 1832 ông được thăng chức “tòng thất phẩm”;
- Năm Quý Tị 1833 được thăng “chánh tứ phẩm”;
- Năm Giáp Ngọ 1834 được thăng "chánh tam phẩm”;
- Năm Ất Mùi 1835 ông đạt được chức vị cũ là "tòng nhị phẩm";
- Năm Bính Thân 1836, ông bị giáng chức lần 2 xuống hàng “chánh lục phẩm” vì vụ dâng sớ ngăn vua ngự giá Quảng Nam để tránh sự khốn khổ cho dân nghèo. Cũng trong năm đó, vua xét lại tính cương trực ở ông nên cho thăng chức “chánh tam phẩm”.
- Năm Mậu Tuất 1838 ông lại bị giáng chức lần ba xuống hàng "chánh tứ phẩm", vì quên đóng ấn một chương sớ.
- Năm Kỷ Hợi 1839, ông lại được phục chức "chánh tam phẩm". Cũng năm này, ông lại bị giáng lần bốn, xuống một cấp "tòng tam phẩm", vì vụ án Vương Hữu Quang, vua ngờ rằng ông biện minh giảm nhẹ tội cho người đồng hương.
- Năm Canh Tý 1840, ông lại bị giáng cấp lần năm, xuống “chánh tứ phẩm”, vì vụ bài thơ điệp vận “Mai trúc tùng”.
- Năm Nhâm Dần 1842 ông được thăng lại chức quan cao mà ông đã từng nắm giữ "tòng nhị phẩm".
- Năm Đinh Mùi 1847, ông được thăng chức "chánh nhị phẩm",
- Năm Quý Sửu 1853 ông được lên chức "tòng nhất phẩm" - chỉ còn một chức quan "chánh nhất phẩm" nữa là tới tột đỉnh của các phẩm quan.
- Năm Nhâm Tuất 1862 ông bị cách lưu, vì vụ thương lượng chuộc ba tỉnh miền Đông bị thất bại, một công việc thất bại tất yếu mà cả triều đình phong kiến lúc bấy giờ, kể cả Tự Đức, cũng không ai làm được, huống gì một Phan Thanh Giản.
Sau năm Nhâm Tuất 1862, vào năm Ất Sửu 1865, Phan Thanh Giản biết mình tuổi già, sức yếu đã xin vua cho về hưu, nhưng bị từ chối. Năm Bính Tuất 1866, ông lại xin từ chức một lần nữa vì bệnh tật, nhưng cũng bị từ chối và còn bị vua khiển trách, yêu cầu ông hoàn thành sứ mệnh lấy lại mấy tỉnh Nam Kỳ. Đến năm Đinh Mão 1867, quân đội Pháp chiếm đóng nốt 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ, biết không thể làm gì hơn và để tránh một cuộc đổ máu vô ích của dân, Phan Thanh Giản ra lệnh cho các quân đội dưới quyền ông đầu hàng. Đây cũng là điểm mốc bi kịch của cuộc đời ông. Với việc để mất nốt ba tỉnh miền Nam Tây Kỳ ông bị vua Tư Đức buộc tội rất nặng nề là: “Xét phải tội chết chưa đủ che được tội.” và quyết định: “truy đoạt lại chức hàm và đẽo bỏ tên ở bia tiến sĩ, để mãi mãi cái án giam hậu.”
Mười 19 năm kề từ khi cụ mật, năm Bính Tuất 1886, Vua Đồng Khánh cho khôi phục nguyên hàm và khắc lại tên cụ trên bia tiến sĩ.
NhatMinhTun
19-08-13, 03:06 PM
1.3. ĐỜI TƯ
Năm 1826, sau khi đỗ đệ tam tiến-sĩ, ông kết hôn với bà Nguyễn Thị Mỹ. Năm 1827, bà Nguyễn Thị Mỹ hạ sinh một gái, nhưng không thọ mà sau đó bà cũng qua đời.
Năm sau khi lãnh chức Tham hiệp tỉnh Quảng Bình, ông cưới con gái của Án sát trí sĩ Trần Công Án là bà Trần Thị Hoạch ở làng Đơn Duệ, huyện Minh Linh, tỉnh Quảng Trị. Sau khi cưới xong, ông nhờ vợ vào Nam nuôi dưỡng cha già.
Năm 1862 Bà Trần Thị Hoạch qua đời, hạ sinh 4 trai:
- Phan Thanh Quân (chết sớm)
- Phan Thanh Hương (có vợ, 5 con: 1 trai, 4 gái)
- Phan Thanh Tòng (có vợ, 4 con: 3 trai, 1 gái)
- Phan Thanh Tôn (có vợ, 4 con: 2 trai, 2 gái)
Trên đây là một số thông tin cơ bản về cuộc đời và sự nghiệp của cụ Phan Thanh Giản. Để có thể tìm hiểu thêm về Cụ Phan Thanh Giản có thể tham khảo tại link sau:
-http://vi.wikipedia.org/wiki/Phan_Thanh_Giản
-http://namkyluctinh.org/ntliem/ntliem-phanthanhgian.htm
-http://cothommagazine.com/index.php?option=com_content&task=view&id=740&Itemid=49
-http://ptgdtd.com/thayxuabancu/ptgian.htm
-http://minhho.minhhodao.perso.neuf.fr/page117.6.html
-http://tuoitrebentre.vn/threads/9445-Tom-luoc-tieu-su-oai-hung-cua-cu-Phan-Thanh-Gian
-http://4phuong.net/ebook/67377317/nghi-ve-ong-phan-thanh-gian.html
-http://119phanthanhgian.com/GIỚITHIỆU/TiểusửPhanThanhGiản/tabid/442333/language/vi-VN/Default.aspx
-http://chutluulai.net/forums/showthread.php?p=57450
-http://ptgdn.com/poems/dacsankkyniem50/ptgmottamhonducdo.htm
-http://www.bentre.gov.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=2993&Itemid=47
NhatMinhTun
19-08-13, 03:21 PM
II. LÁ SỐ CỤ PHAN THANH GIẢN QUA PHÂN TÍCH CỦA CỤ THIÊN LƯƠNG
Theo cuốn Những lá số Danh nhân và cổ nhân của cụ Thiên Lương, cụ Phan Thanh giản sinh ngày 12 tháng 10 năm Bính Thìn, giờ Tị . Do trình an sao buộc phải đưa năm sinh do vậy dùng năm 1976 để lấy lá số cụ Phan Thanh Giản. Theo đó lá số được an như sau:
2482
Người viết trích nguyên văn luận phân tích lá số của cụ Thiên Lương về lá số cụ Phan Thanh Giản như sau:
"Cụ Phan Thanh Giản là một nhân vật của lịch sử. Cuộc đời cụ từ lúc tay buông suôi cho đến nay đã có nhiều tùy theo thời cuộc, công luận ca ngợi cũng lắm và chê bai không phải là không có.
Giữa lúc con cháu xúm quanh cái thây ma than khóc là chính lúc ở giữa triều đình nhà Nguyễn nghị luận về tội trạng của người để mất ba tỉnh miền Tây Nam- phần bằng cái án không được tốt đẹp : tước bỏ chức vị, đục bỏ tên trong bia hàng tiến sĩ (1867). Rồi 19 năm sau (1886) vua Đồng Khánh lên ngôi lại cùng triều thần xét lại cho là cụ không tội, phục chức cũ và dựng bia tiến sĩ lại. Đến nay biết bao cuộc biến đổi mà nghệ thuật phê bình cũng lắm đổi thay.
Đứng trước một vụ án danh dự, thiết tưởng bản số của cụ là chiếc phóng ảnh trong hay đục là trách vụ của những ai thông hiểu nên đem ra phân tách giúp lịch sử rộng đường phán quyết.
Mới đây có một vị độc giả Khoa Học Huyền Bí ở Vĩnh Long cho biết cụ Phan Thanh Giản sanh năm Bính Thìn (1976) ngày 12 tháng 10 giờ Tỵ. Ông mong rằng số có thể soi tỏ nỗi lòng của người đã khuất cách đây trên khoảng 100 năm. Vì là vụ án lịch sử, cũng xin mạo muội gọi là tiếp tay cùng vị nào đó.
Nhận thấy mệnh ở Ngọ và thân ở Thìn là hai vị- trí có thể nói là tương phản, là nỗi lòng của người yêu nước, lo dân mà phải bó tay trước định mệnh, Thất Sát( mệnh) ở Ngọ là vị hung tinh đắc địa có bầy tôi trung thành là thiên hình kề cận, bộc lộ tính cách 1 danh nhân không bao giờ từ nan, một sự khó khăn giám cản ngăn, giám can thiệp mọi sự việc trên bước đường đời mệnh danh là quốc tế dân sinh không có công ích. Tử Tướng (thân) bị triệt là cách của Tử vi chiến đấu bị thất bại. Nhưng ở đây lại khác, Tử tướng mắc La võng (Đà La, Địa Kiếp) phải có triệt tháo gỡ, cố chiến đấu cũng chỉ là vô vọng( Tử- Tướng vẫn ở thế bị Triệt) chỉ được cái tiếng là người làm việc cho chính ghĩa ( thái Tuế).
Từ bộ Sát Phá Tham đắc địa có sát tinh phò trợ đến bộ Tử Phủ Vũ Tướng bị cả Triệt lẫn Tuần đủ nghĩa là định mệnh chỉ cho phép cụ thành danh gánh vác việc đời mà không cho phép cụ được hài lòng (Tang môn) với chính nghĩa mình phục vụ. Ở đây (mệnh) được tinh đẩu mất vị trí, Thân được vị trí hỏng tinh đẩu. Thật là định mệnh khắt khe, chứ bản tâm là người có thừa thiện chí với trách nhiệm nghĩa vụ thì hiển nhiên không thể căn cứ thành quả mà kết án được. Tại sao cả một nước yếu kém không kình chống lại cuộc xâm lăng, lại đi buộc tội một ông già chân yếu tay mềm để mất đất?
Cái thế tam hợp mệnh là cái thế của người lo toan triền miên (Tang môn) với Thất Sát, Thiên Hình anh hùng bao nhiêu thì Kình-Lực đem lại hậu quả vô vọng bấy nhiêu. Tham lang, Đại hao (đắc địa) càng trổ tài thu vén bao nhiêu thì Mã Khốc Khách, Tuyệt càng đầy ải thân thế bấy nhiêu, đến quan cung lưỡng phá ( Phá Quân, Tuế Phá) biết bao là hùng tráng, cứng cổ cũng không phải là lý do để mấy ông mão cao bào tía ngồi tán láo bẻ hành bẻ tỏi cho là phản-trắc tự ý nhượng đất cho quân cướp nước, Thử hỏi người Thổ mệnh thân lại đóng ở Thái Tuế có thể nào hành động của phường Phá Quân ở Tuất, huống chi Phá Quân ở đây đã bị Thiên tài lột xát mất rồi, chung qui chỉ là oan-nghiệp (Hình riêu không kiếp) cụ đã vướng phải, nên phải hứng chịu.
Cụ Phan Thanh Giản được 2 giai đọan (24-33) và (64-73) là hai cung thân và Tí. Đậu tiến sĩ độc nhất danh dự cho miền nam năm cụ 29 tuổi, rồi 5 năm sau chìm nổi trong biển họan thăng giáng không ngừng xét ra chỉ vì Thất Sát Thiên Hình là bản tính của người cương nghị, không thể làm ngơ, không lời ngăn cản ngay cả với vị chúa tể quốc gia, như trường hợp ngăn cản vua Minh Mạng năm 1836 muốn tuần du Ngũ Hành Sơn lúc dân chúng đang lo cày cấy, đem lại cho cụ sau này bị biếm chức thành một thuộc viên lo công việc quét dọn bàn ghế ở công đường ngay chỗ cụ đang nhậm chức. Đời cụ tính ra có đến 04 lần bị giáng chức chỉ vì Hình Sát giám ăn nói, giám can thiệp bất cứ việc gì, bất kể là đối chọi với ai, và cũng vì Kình Lực mà công lao đến đâu cũng hầu như không được nhắc đến, và cũng vì Tử Tướng bị Triệt cuộc đời lao đao như người bại trận.
Đáo vận 64-73 là giai đọan chót cuộc đời, người tuổi Thìn đi đến tí là một điều hay, Thân bị Triệt đến đây đắc Tuần là cách mở lối dương danh tuần tự tiến bước từ chức Thượng-Thơ Hình Bộ sung cơ Mật Viện và Tòan Quyền Phó Sứ Kinh Lược Nam Kỳ, Tổng Đốc Gia Định rồi Vĩnh Long cho đến ngày về Thần.
Là người của lịch sử trải qua ba đời vua Minh Mạng, thiệu Trị, tự Đức, Cụ Phan Thanh Giản dĩ nhiên là người thấu đáo những gì từ cái yếu kém của Tổ Quốc đến cái hùng mạnh của kẻ xâm lăng, từ cái lo cho dân được ấm no đến cái mềm dẻo ngoại giao cho đất nước đỡ tàn hại vì chiến bại, thiết tưởng người cầm bút phẩm bình phải có công tâm thấu hiểu những gì ngô bí của bị can. Công tố viên phải là một người có một nghệ thuật sâu rộng, một tâm hồn trong sạch, một cái vốn khá đầy đủ về sử học biết đặt địa vị mình trong hòan cảnh người lịch sử. Đổ tội cho ông già đáng lẽ được hưởng cảnh điền viên chờ ngày xuống lỗ, mà phải cáng đáng việc lấp biển vá trời. Huống chi trách vụ phải đảm nhiệm, đảm nhiệm để mà chết thì còn gì cao đẹp, cảm động thiết tha hơn nũa trước khi chết còn trối chăng con cháu sau này không được hưởng thụ một đặc ân gì của kẻ cướp, mà vẫn giữ được hòa khí với họ cho dân đỡ lầm than, cho nước có thời gian tính toán liệu thế ngăn cản ngọai xâm.
Ta rõ cái chết của cụ Phan để tỏ lòng trung với nước, mà vẫn được người Pháp kính trọng là cái thế kẹt của Tử Tướng bị Triệt ở La võng, mà không từ chối nhiệm vụ gánh vác là hình Sát của người nặng lo (Tang môn) để rồi kết liễu cuộc đời can đảm bằng chén thuốc độc (Hóa Kỵ đặc biệt của tuổi Bính –Đinh). Nó hãnh diện hiển hách vạn lần tấm kim Khánh khắc 4 chữ Liêm, Bình,Cần,Cán” của vua Tự Đức ban khen lúc trấn Nhậm, Vậy người của lịch sử phải hứng chịu búa dìu lịch sử đẽo gọt, nhưng biết được uẩn khúc và trạng thái nêu ra, đó mới là lời vàng nét ngọc đáng ghi vào sử học".
Trích: Những lá số Danh nhân và cổ nhân-Tử Vi Nghiệm Lý-Thiên Lương
NhatMinhTun
19-08-13, 03:28 PM
III. LÁ SỐ CỤ PHAN THANH GIẢN DO NGƯỜI VIẾT ĐỊNH LẠI
Vẫn giữ nguyên các thông tin về ngày tháng năm sinh, người viết chỉ thay đổi giờ sinh để lấy lá số của cụ Phan Thanh Giản. Theo đó, người viết mạo muội dùng giờ Ngọ ngày 12 tháng 10 năm Bính Thìn để an lá số và phân tích cuộc đời cụ Phan Thanh Giản như sau:
2483
3.1. Tính cách, khả năng và con người cụ Phan Thanh Giản
Mệnh VCD với bộ Tam Không hội họp thực tế hình thành nên cách KHÔNG TRIỆT tại Mệnh. Trong tất cả các cách Tam Không thì vị trí TRIỆT án tại THIÊN KHÔNG có phần dễ chịu nhất bởi khi đó TRIỆT vừa có tác dụng loại bỏ các tai họa, nạn của bộ KHÔNG KIẾP (dù KIẾP ở chính cung hay hội họp) thì bộ KHÔNG TRIỆT còn là cách KHÔNG TRỪ, KHÔNG SAI. Thực tế nếu không có TỒN thì toàn bộ KHÔNG KIẾP ở đây vô hại. Tuy nhiên do xuất hiện của bộ TỒN TƯỚNG ÂN (thực tế là TÔN) do vậy cái kiếp nạn vẫn tồn tại. Vô tình TỒN TƯỚNG ÂN BỆNH+KHÔNG KIẾP giống như kẻ yêu nước gặp nạn, cái nạn của quốc gia, vì quốc gia mà chịu nạn.
Mệnh VCD đắc KHÔNG TRIỆT bên ngoài là bộ LIÊM THAM nhưng thực chất bên trong là bộ PHỦ TƯỚNG. Nói gì thì nói, việc cho rằng luận đoán cho Mệnh VCD thì dùng chính tinh xung chiếu để luận đoán người viết cho rằng không hoàn toàn như vậy quan trọng nhất là bản thân họ hợp với ngôi nào mà thôi. Có người phù hợp với bên trong nhưng không phù hợp với bên ngoài và ngược lại. Kẻ dụng cả trong và ngoài do vậy để luận đoán cho VCD trước hết cần định xem họ có thiên hướng của trong hay ngoài hay có thể dụng được cả trong và ngoài hay không. Khó đoán biết nhất với lá số người VCD mà phù hợp với các Chính tinh Tam Hợp bởi khi đó con người thật của họ ẩn, che dấu ở hai cung này điển hình ở đây là lá số của cụ Phan Thanh Giản.
Ở lá số của cụ Phan Thanh Giản bộ PHỦ TƯỚNG cho thấy cái nghiệp cụ phải mang là sự BAO BỌC, TƯƠNG TRỢ. Nhìn vào lá số của cụ chúng ta thấy bộ PHỦ TƯỚNG của cụ rất là đẹp khi ở hai vị trí này đều có các sao, bộ sao phù hợp đi cùng đặc biệt cách TƯƠNG TUẦN chủ trọng nghĩa và TƯƠNG TUẦN QUỐC ẤN là hình ảnh của người CHỌN VẸN VỚI ĐÂT NƯỚC đáng tiệc bên trong lại tồn tại một KIẾP NẠN, QUỐC NẠN của bộ KHÔNG KIẾP ẤN BỆNH. Cũng vì con người cụ có thiên hướng về Chính tinh thuộc cung Tam Hợp do vậy để đánh giá về cụ, về con người thật của cụ rất khó và cần có một khoảng thời gian đủ dài làm việc, sống cùng với Cụ khi đó mới có thể đoán biết được cụ ra sao, con người cụ thế nào (xét ở góc độ không Tử Vi).
Việc đánh giá người VCD đã khó nay với cách cục của cụ càng phức tạp, khi bên ngoài là bộ HỒNG KHÔI KỴ càng làm cho người ta hoài nghi về con người cụ, hoài nghi về phẩm giá, đạo đức của cụ. Trong tất cả các vị trí của KỴ thì KỴ xung là vị trí khó chịu nhất bởi người có KỴ xung họ phải đối mặt với những nghi kỵ, nghi ngờ, đố kỵ từ bên ngoài tức là bị động. Ở cụ không phải riêng KỴ mà có cả HÔNG KHÔI KỴ thì cái sự nghi ngờ, nghi kỵ đó nó đủ lớn tới mức nào? HỒNG LOAN còn là ngôi sao của dự luận nữa đó bạn ơi! Bên ngoài HỒNG KHÔI KỴ bên trong PHỦ TƯỚNG TỒN ẤN BỆNH KHÔNG KIẾP TẢ HỮU chẳng phải người ta nghi cụ với cái án tiếp tay, bán các tỉnh Nam Kỳ hay sao?. Thật buồn cười khi PHỦ TƯỚNG là bộ sao chủ về sự thương thuyết, thương thảo mà Tài Bạch của cụ lại ngộ ẤN BỆNH kết hợp với bộ HỒNG KHÔI KỴ bên ngoài và PHỦ TƯỚNG ÂN BỆNH TẢ HỮU KHÔNG KIẾP bên trong hẳn cụ khó tránh khỏi cái KIẾP NẠN bán 06 tỉnh Miền Nam?....
Và cụ còn có gì nữa?
Cụ là một người thông minh dĩnh ngộ bởi bộ Tam Minh (3 cái sáng) hội về Mệnh lại có KHÔI VIỆT chủ vượt trội hơn người. Ta còn tìm thấy ở cụ đức tính cao cả, bao dung, độ lượng của bộ ĐẠI ĐỒNG và QUANG ĐỒNG. Bộ PHỦ TƯỚNG chủ sự tương trợ, bao bọc như đã bàn ở trên. Đặc biệt bộ TƯỚNG TẢ HỮU là bộ sao thú vị trên lá số Tử Vi, người có bộ sao này có thể đi qua hạn KHÔNG KIẾP dễ dàng.
Với lá số của cụ cho thấy việc cụ cố gắng tìm cơ hội để giải hòa, thương thuyết với thực dân Pháp để tránh cho việc xung đột bằng quân sự là ý thức về việc nếu có xung đột thì cũng không thể thắng được thực dân ngược lại còn gây tổn thất về xương máu cho nhân dân các tỉnh Nam Kỳ và đó chính là đặc tính của bộ PHỦ TƯỚNG TẢ HỮU KHÔNG KIẾP ẤN BỆNH trong cụ (vì dân, vi hiểu được thế của thực dân mà chịu kiếp nạn).
Trên lá số cụ hình thành cách CỰ NHẬT đặc biệt tại vị trí CỰ MÔN đăc TUẦN chủ Can gián đúng, phản đối đúng đáng tiệc lại ngộ CÁO PHỤ HÌNH và bộ HỎA LINH và đặc biệt là CỰ đóng tại Ách cung do vậy cuộc đời cụ khó tránh khói cái Ách do can gián và ai chẳng biết CỰ luôn lục hội với TỬ?
Người có KHÔNG KIẾP tại Mệnh (rất nổi bật với KHÔNG KIẾP đắc địa) là người dám làm, dám chịu, dám đương đầu. Quan trong là kết quả sẽ ra sao mà thôi. Và trong cụ có tính chất đó. Đáng tiếc Mệnh Cụ VCD do vậy những gì cụ dám làm dám chịu mãi về sau này mới được nhắc đến xứng đáng.
Trên lá số của cụ còn hình thành cách TRIỆT XƯƠNG KHÚC cũng là một cách hay và có lợi cho việc nghiên cứu, đèn sách.
3.2.Bàn về một số Tiểu Hạn của cụ
- Năm 1825 đậu cử nhân khoa Ất Dậu, năm đó cụ 30 tuổi âm. Đại Vận thứ 3 tại TỬ PHÁ bên trong hình thành cách VŨ BINH, TỬ VI+THANH LONG đặc biệt Đại Vận LONG HÀ KỴ chủ thời vận. Năm Ất Dậu tại hạn có VŨ PHỤC và đặc biệt năm đó tìm thấy bộ HỒNG KHOA KHÔI Mệnh Tài Quan hội đủ bộ Tứ Linh.
- Năm 1826 cụ đậu Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ khoa Bính Tuất niên hiệu Minh Mạng thứ 7 khi Hạn đến cung Thìn với bộ XƯƠNG KHÚC cố định ngộ KHOA và KHOA lưu động đồng thời năm này ông đến hạn của chữ KHỞI do vậy băt đầu từ năm này ông làm quan trải 3 triều là Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Thực tế năm này khi cụ ra làm quan đã báo hiều nhiều điểm không thuận lợi khi năm này là năm Bính đã báo hiệu một HỒNG KHÔI KỴ lưu động đợi sẵn bên ngoài và một TỒN TƯỚNG ÂN BỆNH PHỦ TƯỚNG TẢ HỮU KHÔNG KIẾP bên trong. Dõ ràng là định mệnh đã an bài để rồi cuộc đời cụ cư thăng giáng nhiều lần trong quãng đời làm quan. Bộ TRIỆT ĐÀ ở đây còn chủ HẠ BỆ, TRIỆT HẠ bộ HỎA LINH làm cho thêm điên đảo, bất ngờ.
- Hạn cụ mất vào năm 1867 cũng rất nổi bật khi Đại Vận đến cung Tật mà Tiểu Hạn đến cung Quan và một lần nữa cụ lại phải THƯƠNG THẢO, THỎA HIỆP với thực dân bởi bộ PHỦ TƯỚNG trong tam hợp của TỒN ẤN BỆNH ngộ KHÔNG KIẾP như đã bàn ở trên. Năm đó bộ ĐẠI KHÔI ĐÀ TANG CÔ QUẢ lưu tại Mệnh Hạn (một nỗi cô độc, một nỗi buồn rất lớn không thể giải tỏa) mà bên ngoài tụ tập toàn bộ các Phi tinh chủ thị phi năm đó bên ngoài đặc biệt là ngôi sao VU KHÔNG ĐƯỜNG PHÙ và THIÊN VIỆT là tác nhân dẫn đến bi kịch của cuộc đời cụ với bộ CỰ KỴ tại Tật khác gì chén thuốc độc sau 17 ngày tuyêt thực của bộ TRIỆT LƯƠNG.
- Hạn vua Đồng Khach khôi phục lại toàn bộ chức vị cho cụ là một Hạn còn thú vị hơn rất nhiều. Mười chín (19) năm sau ngày cụ mất, năm 1886 tức năm Bính Tuất cụ được Vua Đồng Khánh cho khôi phục nguyên hàm và khắc lại tên cụ trên bia tiến sĩ. Tính ra năm đó nếu còn sống cụ sẽ 91 tuổi, tức là thuộc Đại Vận tại Tài Bach, Đại vận của chữ nối, hàn gắn mà bên ngoài có ngôi sao Địa Vị TỬ VI. Năm đó trên lá số hiện dõ cụm từ KHÔI PHỤC ĐỊA VỊ!
Các hạn về giáng chức của cụ ta cũng dễ dàng nhận thấy trên lá số.
Bài viết xin dừng lại tại đây (TRIỆT). Tôi hy vọng (THAM+HỶ) một này nào đó bài viết sẽ đến được các quý bạn đọc trên quê hương của cụ. Để chúng ta hiểu rõ (TRIỆT XƯƠNG KHÚC) được về con người, tấm lòng vì dân cũng như những búa rìu dư luận (HỒNG KỴ) mà cụ đã phải gánh chịu (TỬ VŨ LIÊM giao hội SÁT PHÁ THAM) trong suốt cuộc đời làm quan cũng như sau này.
Trân trọng./.
Nguyễn Lê Huy Hoàng
19-08-13, 03:42 PM
Năm Đinh CỰ hóa KỊ nên vì một lời nói mà mất mạng và mất cả danh.Mà hơn nữa vua giao cho trách nghiệm đòi lại các tỉnh miền Nam Kì.Có vẻ là ông đã cố gắng chối bỏ mà vẫn không được.Theo cảm giác của em đó là cái nghiệp phải mang.Cái nghiệp phản đối đòi lại của ông CỰ MÔN.Có lẽ mệnh cần có CỰ
NhatMinhTun
19-08-13, 03:51 PM
Năm Đinh CỰ hóa KỊ nên vì một lời nói mà mất mạng và mất cả danh.Mà hơn nữa vua giao cho trách nghiệm đòi lại các tỉnh miền Nam Kì.Có vẻ là ông đã cố gắng chối bỏ mà vẫn không được.Theo cảm giác của em đó là cái nghiệp phải mang.Cái nghiệp phản đối đòi lại của ông CỰ MÔN.Có lẽ mệnh cần có CỰ
Năm cụ mất là năm Đinh Dậu. Đại Hạn tại Ách cung mà Tiểu Vận tại cung Mão đó. Chạy đâu cũng thấy KỴ.
Hay nhất là Hạn vua Đồng Khách phục vị cho Cụ. Điều đó chứng minh khi chúng ta chết đi la số Tử Vi vẫn sống mãi.
Nguyễn Lê Huy Hoàng
19-08-13, 04:43 PM
Năm 1826 lấy vợ và năm 1886 được phục hồi danh dự và bia tiến sĩ.Hai năm này đều là Bính Tuất.Mà nhìn vào phi tinh năm này thì ta có thể đoán định được rằng mệnh chỉ nằm ở 1 trong 6 vị trí Tị Dậu Sửu và Hợi Mão Mùi.Coi như cũng đá được khá nhiều lá số.Hơn nữa mệnh hay tật cần CỰ MÔN.
NhatMinhTun
19-08-13, 04:56 PM
Năm 1826 lấy vợ và năm 1886 được phục hồi danh dự và bia tiến sĩ.Hai năm này đều là Bính Tuất.Mà nhìn vào phi tinh năm này thì ta có thể đoán định được rằng mệnh chỉ nằm ở 1 trong 6 vị trí Tị Dậu Sửu và Hợi Mão Mùi.Coi như cũng đá được khá nhiều lá số.Hơn nữa mệnh hay tật cần CỰ MÔN.
Dùng ngày tháng năm sinh và cho giờ sinh chạy. Khi đó bố cục chính tinh sẽ khác.