Về Đâu Con Trai Hà Nội.
Caroline Thanh Hương
(Cảm xúc viết theo bài Con Gái Hà Nội Ở Đâu của tác giả Vũ Thế Thành.)
Đọc bài Con Gái Hà Nội Ở Đâu của tác giả Vũ Thế Thành, tôi chợt nhớ lại những người bạn Sài Gòn của tôi ngày xưa và tự hỏi có ai biết Con Trai Hà Nội về đâu không nhỉ?
Đa số những người con trai Hà Nội xưa vào Sài Gòn, người lớn hơn tôi thì có khi tự xưng mình là dân miền Nam, mặc dù phát âm chạy đâu cho khỏi cái giọng "lai Bắc" ấy.
Tôi không dám nói là tất cả những người quen của tôi đều giống như bài viết ở đây, nhưng điều tôi chắc chắn, đó là những người con trai cùng mẹ Việt Nam.
Họ rất lễ độ̣, đi đâu cũng thưa đi, khi về cũng thưa về.
Vào bàn ăn, phải mời người trên, mời ông bà cha, mẹ dùng cơm, so đủa cho người trên và đám trẻ cũng phải mời người lớn rồi mới được ăn.
Khi ăn xong, đám trẻ cũng không được rời bàn nếu người lớn chưa cho phép.
Bữa cơm, dù thanh đạm, cũng không ai than phiền cái thiếu thốn, cái nghèo đến phát đói không đủ ăn hay nghèo đến quần áo cũng không vá thì cũng xuống lai đến hết chỗ xuống và chó có cắn, ba ngày cũng không vớ tới.
Hà Nội có những món bún, và từ những món ăn này, họ có thể vui vẻ kể cho chúng ta nghe đến phát thèm mà có khi chúng ta được thưởng thức thì có lẽ phải tuỳ người thấy thích mới ăn thấy ngon được.
Thế đấy, nhưng không phải ai cũng nghèo cả, có lắm người rất chịu khó và khá giả.
Họ it́ than thở và thường thương cha mẹ, quý ông bà và luôn là người con yêu quý của mẹ.
Cộng thêm vào cái lễ phép, con trai Hà Nội nói chuyện rất nhẹ nhàng, sang trọng, không cao giọng, cũng không đớp chát với người khác phái mà rất từ tốn và thích nói về chuyện gia đình nội bộ hơn là nói chuyện người ngoài.
Tuy vậy, người miền Nam thường bị ăn bánh vẽ của người miền Bắc vì cái tính có ít nói... nhưng nói thêm, không bao giờ chê xấu mà chỉ nói cái đẹp khác quý hơn và luôn nhỏ nhẹ sửa ngầm từng lời ăn, tiếng nói và phong cách cư xử cho người mà họ yêu quý tốt hơn.
Trong xã hội, đa số họ là người có tài, khá khiêm nhường, nếu đúng là dân Hà Nội, nhưng cái cao ngạo ngầm khiến người khác luôn nể phục, vì họ rất đúng khi tranh cải.
Nói đến chuyện tranh cải, thì nếu ai chưa từng nghe người Hà Nội chửi thì chưa biết chuyện chửi của họ cao siêu đến mức độ nào.
Địa vị người con Cả, hay người con Út cũng khá quan trọng trong gia đình người Hà Nội.
Trong thời kỳ khó khăn nhất của miền Nam sau những năm 1975, còn thấy được những người Hà Nội định cư tại Sài Gòn thì mới hiểu họ được nung rèn thế nào trong lửa.
Sau này sang ngoại quốc, nếu tôi tình cờ gặp người nào đó trao đổi vài câu chuyện và nhìn, nghe hay đọc bài họ viết thì tôi nhìn ra ngay cái tinh tế, cái cá tính đó của người Hà Nội không thể nào khác xưa.
Ngày nay, người ta hay gom đủa cả bó, học trò không được thầy cô dạy Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn nữa, và đời sống kinh tế quá khó khăn sinh ra những con người mới, có thể phai nhạt đi cái đẹp của thời xa xưa.
Có người quen nói cho tôi biết, bây giờ phong trào bên kia bờ đại dương đã trở lại quý cái giọng Hà Nội xưa.
Người ta tập phát âm lại theo xưa và tôi cũng hy vọng là chất ưu việt này còn lưu lại mãi trong những con người của mỗi miền đất nước Việt Nam.
Còn nước Việt thì chúng ta còn quê hương và chữ viết, mất nước rồi thì còn nòi giống Việt nữa đâu mà hối tiếc, có phải thế không?
Caroline Thanh Hương
26 tháng 5 năm 2017.
Cảm xúc viết theo bài Con Gái Hà Nội Ở Đâu của tác giả Vũ Thế Thành.
Phạm Mỹ Lộc với nhạc phẩm Đêm Giã Từ Hà Nội và bài viết Hà Nội Xưa.
Sau bài này, tôi tìm được thêm bài của tác giả Nguyễn Văn Lục viết một bài về tác giả Vũ Thế Thành.
Quý anh chị nào muốn nhớ về mảnh đất xưa của mình qua ký ức những bài viết, xin tiếp tục đọc thêm cho hết bài đã post nơi đây.
Tôi xin mạn phép lưu lại cùng trang Blog này để dễ tìm lại tài liệu, vì với thời gian, nhiều web page không còn nữa và có khi muốn tìm thì trên net đã không còn dấu tích.
Chân thành cám ơn tác giả các bài viết và bài đã post trong Blog hay trên net đã chia sẻ cho chúng ta những ký ức của một thời Việt Nam.
Caroline Thanh Hương
Posted on 10/05/2017
by vuthethanh
Mẹ
tôi nể phục mấy cô gái Hà Nội lắm. Dưới con mắt của người nhà quê ra Hà Nội làm
việc vặt, bà thấy các thiếu nữ nơi đây ứng xử khôn khéo, nói năng lễ độ, và
khuôn phép lắm. Đó là chưa kể thêu thùa may vá, nữ công gia chánh,… Nói chung
là đảm. Mỗi khi thấy mấy cô Sài Gòn tân thời quá, tự nhiên quá, bà lại chép miệng,
con gái Hà Nội đâu có thế. Bà nói riết, nói riết…, khiến tôi ngờ…bà muốn thằng
con của bà nên đi tìm một thiếu nữ Hà Nội.
Vũ Thế Thành
Nhưng thế giới của tôi lại khác. Tôi sinh ra ở Sài Gòn, lớn
lên ở Sài Gòn, bạn bè Sài gòn, trong đầu tôi, nếu có, cũng chỉ là con gái Sài
Gòn cho hợp… thủy thổ.
Tôi đã nhìn thiếu nữ Hà Nội qua lăng kính của những tiểu
thuyết trong Tự Lực Văn Đoàn mà tôi được học thời trung học.
Mà con gái Bắc (di cư 54) hồi đó gớm lắm, vờn qua vờn lại,
làm duyên, đá lông nheo, õng ẽo làm điêu đứng con trai Nam Kỳ đến là khổ.
Một thanh niên xứ Biên Hòa đã phải cay đắng thế này:
“ Em nhớ giữ tính tình con gái Bắc
Nhớ điêu ngoa nhưng giả bộ ngoan hiền,
Nhớ khiêm nhường nhưng thâm ý khoe khoang,
Nhớ duyên dáng ngây thơ mà xảo quyệt…”
Tôi không có ý kiến gì về bài thơ trên, mà cũng chẳng dại gì
có ý kiến. Mấy bà mấy cô Bắc Kỳ đọc bài thơ trên có nổi cơn tam bành rủa xả,
thì chắc cũng chỉ mình rủa mình nghe thôi, chứ tác giả, nhà thơ Nguyễn Tất
Nhiên chết rồi, chết trong một chiếc xe hơi cũ kỹ ở sân chùa bên California.
Dù sao cũng nên đọc tiếp thêm vài câu nữa mới thấy “cảm
thương” cho tác giả:
“…Ta vẫn nhớ dặn dò lòng tha thiết,
Nên vội vàng tin tưởng chuyện vu vơ
Nên yêu đương bằng gương mặt khờ khờ
Nên hùng hổ để đợi giờ thua thiệt…”
Những ngày sau 75, trên tivi Sài Gòn là những đoàn quân “chiến
sĩ gái”, bước theo nhịp quân hành, chiếu cận cảnh với đôi mắt rực lửa căm hờn,
giọng nói lanh lảnh. Cảm giác đầu tiên của tôi với các cô gái Bắc Kỳ (thứ thiệt)
là…ớn lạnh. Tôi cười, “Đấy con gái Hà Nội của mẹ đấy…”. Bà cụ lại thở
dài, chép miệng… “Hồi trước đâu có thế…”.
Dĩ nhiên, mẹ tôi không thể phát hiện cái trò đánh lận rẻ tiền
của thằng con, tỉnh bơ xem tất cả các cô Bắc Kỳ đều là các cô Hà Nội.
Thực ra trong đầu tôi cũng có một chút gì đó mơ hồ về con
gái Hà Nội. Biết tả thế nào nhỉ! Có thể là hình ảnh dịu dàng đằm thắm của cô
Liên trong Gánh Hàng Hoa, hay thiếu nữ tân thời một cách bảo thủ, không
sao thoát ra khỏi vòng lễ giáo của cô Loan trong Đoạn Tuyệt. Tôi cảm được
nỗi cô đơn của Loan khi thả bộ trên bờ đê Yên Phụ,… Đại loại là tôi đã nhìn thiếu
nữ Hà Nội qua lăng kính của những tiểu thuyết trong Tự Lực Văn Đoàn mà tôi được
học thời trung học.
Cũng chẳng dừng ở đấy đâu. Khi đọc “Tuấn, chàng trai nước
Việt”, một thứ tiểu thuyết hồi ký của Nguyễn Vỹ, tôi biết thêm rằng, các cô
nữ sinh Hà Nội cũng lãng mạn ra rít. Họ kín đáo lập ra hội “Ái Tino”. Tino
Rossi là ca sĩ người Pháp lừng danh thưở đó, và là thần tượng của vô số thiếu nữ,
chẳng riêng gì thiếu nữ Hà thành. Cái “hội” kín đáo, chỉ lèo tèo dăm ba cô thế
thôi, nhanh chóng tan hàng, và rồi mạnh ai người nấy tam tòng tứ đức, xuất giá
tòng phu, công dung ngôn hạnh… Cái “lãng mạn tân thời” chỉ là đóm lửa, và họ
nhanh chóng quay lại với sự thanh lịch, nề nếp theo giáo dục của gia đình.
Năm 1980, lần đầu tiên tôi ra Hà Nội công tác. Anh bạn đồng
nghiệp trạc tuổi, tốt nghiệp từ Đông Đức, chở tôi trên chiếc Simson lòng vòng
Hà Nội. Nơi đầu tiên tôi muốn ghé thăm là phố Khâm Thiên. Anh bạn tròn xoe mắt,
“Làm gì còn hố bom mà ghé thăm”. Tôi chợt hiểu vì sao anh bạn ngạc
nhiên, nhưng không thể giải thích. Môi trường giáo dục trong Nam ngoài Bắc khác
nhau.
Cái máu phóng đãng đã dẫn tôi đến phố Khâm Thiên, chứ không
phải bom rơi đạn lạc ở đó. Đến, dù chỉ để nhìn vài căn nhà xiêu vẹo, cũng thỏa
đôi chút tò mò về một thời vang bóng. Phong lưu tài tử giai nhân, đúng, nhưng
không phải cách phong lưu của Vân Hạc trong Lều Chõng của Ngô Tất Tố. Anh chàng
Vân Hạc khi chờ kết quả thi, ra vào chốn ả đào để vui say bè bạn, để trấn an
nhau, để bốc nhau, để chờ ngày bảng vàng ghi tên.
Tôi nhớ đến kiểu cách phong lưu của Cao Bá Quát, một tay
chơi thứ thiệt, khi làm sơ khảo trường thi, tiếc bài thi hay mà phạm húy, đã
dùng muội đèn để sửa. Việc lộ, bị kết án giảo giam hậu, ông phải đi dương trình
hiệu lực, nghĩa là đi làm phục dịch cho phái đoàn đi công tác nước ngoài. Con
người tài hoa này, mang theo nỗi cô đơn đến phố ả đào giải sầu bên chén rượu,
làm vài bài hát nói, đào nương hát, mình gõ nhịp…
“Giai nhân nan tái đắc
Trót yêu hoa nên dan díu với tình
Mái tây hiên nguyệt gác chênh chênh
Rầu rĩ lắm xuân về oanh nhớ…”
Cũng lần đầu ở Hà Nội, buổi chiều chập choạng tối, lang
thang ở phố Huế, tôi thấy một bà đi xe đạp ngược chiều, bị cảnh sát ngoắc lại.
Bà năn nỉ thông cảm? Không. Bà phân bua? Không. Bà cãi tay đôi với cảnh sát rằng,
nhất định mình đúng. Lương và nhu yếu phẩm phân phối còn không đủ sống, đâu dễ
gì chịu nộp phạt. Đôi co với nhau mà cả hai vẫn một mực xưng hô…đồng chí. Tôi
phì cười. Hà Nội có những điều không nằm trong trí tưởng tượng của một người
Sài Gòn, lần đầu ra Hà Nội như tôi.
Bây giờ, Hà Nội khác xa rồi. Hà Nội nhiều nhà cao tầng, cầu
vượt. Hà Nội nhiều xe hơi hơn, Hà Nội giàu hơn. Hà Nội không còn những cảnh cãi
tay đôi với cảnh sát buồn cười như thế nữa. Hà Nội văn minh hơn, nhưng có
thể họ phải “cãi tay đôi” với chính mình, khi mà còn những cảnh thanh niên thiếu
nữ “ à la mode” hái hoa, giẵm hoa bẻ cành để chụp ảnh, hay gào thét tung hô thần
tượng minh tinh Hàn Quốc. Đó là chưa kể bún mắng cháo chửi, rải rác vẫn còn đâu
đó. Thương hiệu chăng? Tôi chịu! Ăn ngon mà nghe chửi, thôi thà ăn độn dễ nuốt
hơn.
Tôi có bà bạn già (hơn tôi) là dân Hà Nội mấy đời. Cha bà là
một trong số rất ít người xong bậc đại học thời Tây. Sau 54, nhà đông con, xoay
sở không nổi, ông bố định cho 2 đứa con lớn tạm nghỉ học, đi làm rồi học bổ túc
sau. Nhưng bà mẹ thì không, nhất quyết không. Bà đến gặp ông bà bác sĩ nhà bên
mượn…tiền để các con tiếp tục ăn học. Họ cùng ở trong thành như bà, không vướng
bận con cái, còn chút của ăn của để, đồng ý cho vay tín chấp, một thứ tín chấp
tình người, thời nay khó tìm. Tôi hiểu ra, dân trí thức Hà Nội xưa có kiểu chơi
“chẳng giống ai” (lúc này). Họ kín đáo giúp đỡ nhau trong những tình huống khắc
nghiệt. Trong họ dường như chất “nhân” và lòng tự trọng được rèn luyện
qua giáo dục, giấy rách phải giữ lấy lề. Mực đen và bão tố không thể vấy bẩn
hay phá sập. Những năm sau 75, trong Sàigòn tôi cũng thấy vài trường hợp
như thế.
Bà bạn (già) này, về chuyên môn, thì kiến thức mênh mông chứ
chẳng vừa. Ăn nói nhẹ nhàng, nhưng quyết liệt khi cần. Vậy mà cư xử thì cứ dạ dạ,..cám
ơn. Bà nói chuyện với tôi cũng thế, cũng dạ dạ,..cám ơn. Tôi cười, sao chị
khách sáo thế. “Không phải đâu, tôi được giáo dục trong nhà từ nhỏ như thế.
Các anh chị em tôi cũng đều như vậy chứ chẳng riêng tôi. Hồi đi học, chỉ vì dạ
dạ…cám ơn mà chúng tôi bị phê bình là tiểu tư sản. Ông bà cụ dạy con nghiêm khắc
lắm. Tôi là con gái, đi học về là phải tập tành bếp núc, ăn trái chuối là phải
bẻ đôi. Ở trường là chuyện khác, còn về nhà là đâu ra đó, vào khuôn phép.”.
Tôi cũng nhận ra sự “khách sáo chân thành” của bà, chứ không phải khách
sáo đãi bôi.
Dạo sau này, vì công việc tôi thường ra Hà Nội. Đi ăn hàng với
bè bạn ở đó thì không sao, nhưng hễ đi một mình là bị chặt (giá), dù chỉ là
chai nước tinh khiết, 10.000 đồng ở quán ven đường phố cổ. Bị chặt riết thành
quen. Tôi nhủ thầm, lần nào ra Hà Nội mà không bị chặt coi như trúng số.
Dù tôi cũng có vài người bạn thân ở Hà Nội, nhưng giữa tôi
và Hà Nội, dường như vẫn còn khoảng cách nào đó. Tôi đến Hà Nội như một kẻ xa lạ,
đến như đi nước ngoài không cần visa.
Sài Gòn dễ hội nhập. Cứ ở Sài Gòn là thành người Sài Gòn.
Chưa thấy mình là người Sài Gòn, ở lâu thêm chút nữa cũng biến thành người Sài
Gòn. Sài Gòn đồng hóa con người nhanh lắm.
Nhưng Hà Nội có lẽ khác, người ta đồng hóa Hà Nội như vũ
bão, đồng hóa cạnh tranh từ nhiều nguồn khác nhau để tạo ra một văn hóa Hà
thành hiện đại khó mô tả. Còn người Hà Nội (thứ thiệt) đành phải co cụm, khép
kín, và giáo dục con cái theo cách riêng của họ để bảo tồn…di sản. Giáo dục từ
gia đình mới tạo ra gốc rễ, chứ không phải là quy tắc ứng xử, hay giàu
sang, quyền thế.
Hà Nội nhiều hồ. Hà Nội đẹp vì hồ vào những buổi sáng thật sớm,
khi trời còn nhá nhem. Sáng lên, Hà Nội biến mất. Con gái Hà Nội (xưa) chắc
cũng thế. Cuộc đời dâu bể đã làm họ biến mất, nhưng thực ra cũng chỉ lẩn quất,
âm thầm đâu đó thôi.
Năm ngoái, đi ngang qua ngõ nhỏ trong khu phố cổ, tôi ghé tiệm
tạp hóa mua chai nước lạnh. Bà bán hàng dễ cũng gần 70, đưa chai nước: “Thưa,
của ông đây, giá 5.000. Cám ơn ông…”. Tai tôi lùng bùng. Trong tiềm thức có
cái gì nghe quen quen, đọc đâu đó rồi. Đã dợm chân đi, nhưng cũng quay lại: “Thưa
bà, bà là người Hà Nội?”. “Vâng ạ, nhà tôi ở ngõ này đã ba đời rồi,
từ thời ông nội tôi ra làm quan ở đây”.
Mẹ tôi nói đúng về con gái Hà Nội. Họ hiếm hoi, ẩn mình như
giọt nước đọng ở mặt dưới của lá cây sau cơn mưa. Có duyên mới gặp, phải tìm mới
thấy.
Vũ Thế Thành
Nguyễn Văn Lục
› Đọc “Một góc ký ức và bây giờ” của Vũ Thế Thành
Đọc “Một góc ký ức và bây giờ” của Vũ Thế Thành
Posted on August 30, 2016 by
Nguyễn văn Lục
Người Pháp có
Paris, Người Anh có Luân Đôn, người Tàu có Thượng Hải, người Bắc có thể có Hà Nội! Chỉ
có người Sài Gòn là không có Sài Gòn. Hoặc giả vay mượn mà muôn đời vẫn xa lạ!
Chấp bút vài dòng về cuốn “Một góc ký ức và bây giờ”, tác
giả Vũ Thế Thành
Cho đến bây giờ, tuổi đã hạc, tôi vẫn chưa hiểu rõ cái ý của
cái anh Chí Phèo, làng Vũ Đại, nói: ‘Ở đâu có này thì ở đó có kia’ là
nghĩa lý làm sao?Phải chăng đó là một chủ trương sống huề cả làng? Nếu thật sự,
anh Chí Phèo của tôi chủ trương như vậy thì tôi coi thường anh lắm!
Nhưng tôi biết chắc một điều, anh Chí Phèo là người radical,
chơi tới bến, thường hướng dẫn và gợi hứng cho tôi nhiều điều; ngay cả cái nhân
cách Chí Phèo, ngay cả cách chửi của anh cũng là một triết lý sống. Này nhé, cả
làng Vũ Đại đã có một ai dám chửi quan chức từ trên xuống dưới? Anh chửi tuốt.
Phải đấy, dám chửi điều xấu phải là một người có nhân cách lắm chứ! Hơn nhiều
người. Muôn người mới có một.
Tôi theo anh không kịp. Anh chỉ khác tôi một điều. Anh sống
bằng chửi còn tôi sống để cầm bút. Mà cầm bút như tôi thì quả thực: giấy bút lầm
than. Tôi nói thật.
Trong thời đại này, một thời đại mà mọi giá trị đều mất
giá. Viết tử tế là một điều khó lắm vì người tử tế không còn nữa.
Nguồn: NXB Hội Nhà Văn
Vậy mà tôi được đọc một nhà văn trong nước, Vũ Thế Thành, hiện
ẩn cư tại Đà Lạt, viết một cuốn truyện mà như một làn gió thoảng giữa cơn
bão táp thời cuộc. Ông viết nhẹ nhàng như chuyện đời thường, đọc như uống một
ly chanh đường giữa cái nắng Sài Gòn; ông viết về chuyện bây giờ mà như thể viết
về ở một nơi nào khác, viết như một hồi ức nhắc nhở, đọc chơi.
Nhưng, đọc anh, tôi thấy tôi trong đó: Cái tôi di cư thời
Phú Thọ lều, cái tôi Đà Lạt thời sinh viên, cái tôi Sài Gòn nhớ nhớ quên quên.
Nhất là cái tôi sau 1975 trong tâm trạng người Sài Gòn trong cuộc đổi đời.
Chỉ khác tôi một điều là những chuyện anh viết đều là chuyện
xem ra nhỏ và không quan trọng. Nhưng chuyện nào cũng gợi ý một cách kín đáo về
một cái gì khác. Nó không đến lộ liểu như câu chuyện “Chiếc bình vôi” hay “Con
ngựa già của Chúa Trịnh” thuở nào.
Sự việc viết ra chỉ là cái cớ để nói về một điều không phải
là cái ấy. Và phải chăng đó là chủ đích của người câm bút?
Như đã nói, đọc anh, tôi rất dễ chia xẻ vì có một mẫu số
chung nào đó. Mẫu số chung ấy trong cùng một hoàn cảnh, càng cắm rễ sâu, khi
phát tán càng có cơ hội gắn bó, gần gũi. Mỗi người một phương mà tấm lòng vẫn
là một.
Cái tâm trạng chung là nhớ về. Không ngờ cái tâm trạng từ mỗi
cá thể trở thành cái chung trong cái riêng. Nó sẽ tự phát trở thành một thứ ký ức
tập thể (collective memory).
Cái nhớ của tác giả cũng là cái nhớ của tôi và của nhiều người
khác đã từng một cội nguồn, đã từ đó mà lớn lên. Và chỉ cần một cái click nhẹ mọi
sự sẽ như một cảnh trí quay lại của một câi đèn kéo quân.
Thật vậy, trong trí nhớ của tôi Đà Lạt là một thành phố
quanh năm là mùa xuân.
Chỉ cần ngồi trên chiếc xe đò Minh Trung, qua khỏi Định
Quán, đi qua Blao là như hít thở không khí Đà Lạt rồi. Một Đà Lạt còn giữ được
vẻ nguyên sơ với những người Thượng từ một triền núi nào đó xuất hiện bất ngờ,
trên vai gù một vài củ măng.
Vắng bóng người sơn cước, Đà Lạt mất cái căn cước của mình.
Phụ nữ miền sơn cước. Nguồn: pierredeloubresse.wordpress.com
Đà Lạt cũng lộ cho thấy đó là một thành phố tiêu biểu cho
phong cách thuộc địa với những biệt thự ẩn hiện dưới các triền đồi thơ mộng.
Sân cù, thảm cỏ xanh mướt, đồi thông, tháp chuông trường Yersin màu gạch đỏ. Đẹp
làm sao.
Nhà của dân chúng thì thường bàng gỗ sơn đủ mầu, có cửa
kính, trước khi nó trở thành một thành phố của các đám cưới với tuần trăng mật.
Và dĩ nhiên, Đà Lạt của tôi cũng như của tác giả, không phải
là thứ Đà Lạt với:
“nhà hàng, nhà cao tầng, các vạt đồi đã đốn cây xanh, còn
trơ đất đỏ sẵn sàng cho những dự án hoành tráng, xứng tầm với thành phố du lịch,
xứ sở ngàn hoa như có người nói` Người ta cắt một mảnh Sài Gòn lên, đem dán vào
Đà Lạt và bảo rằng Đà Lạt đang phát triển trong quy hoạch.”
(trích bài “Kiều Lão Đà Lạt” của tác giả).
Một Đà lạt mà tác giả tự hỏi còn cái hồn ra sao?
Theo tôi, ký vãng cũ lúc nào không hay trở thành cái lẽ sống
ở đời (La raison d’être)ở những người như tác giả.
Cho nên, từ một miếng ăn, dù tầm thường như nước măm tĩn
Phan Thiết, trứng vịt lộn, miếng chả lụa với hương vị riêng của nó, mùi cà cuống,
v.v., tất cả những thứ đó với vốn liếng chuyên môn khoa học về thực phẩm của
tác giả trong sự phân tích hóa học, nó gợi nhớ người đọc đến Vũ Bằng, khi sống ở
Sài Gòn cũng gợi nhớ về Hà Nội trong “Miếng ngon Hà Nội” với Cốm vòng, Rươi,
Ngô rang, Khoai lùi, Gỏi, Chả cá, Thịt cầy thời trước 1975.
Nhưng tính chất khoa học của món ăn thì hẳn không tìm thấy
trong “Miếng ngon Hà Nội” của Vũ Bằng được.
Những phần viết về món ăn này chiếm một tỉ lệ ưu thế trong số
bài viết của tác giả mà khéo sắp xếp và trình bầy, nó có cơ may trở thành như một
thứ chủ thuyết phồn thực.
Nhưng trong tất cả các bài viết ấy, dù là một cảnh trí bên
Pháp hay Đức như: Một chút Sài Gòn trong lòng Hamburg, Trăm nghìn nỗi khổ, Cà
cuống, Con gián và đàn bà, Hồi đó tụi mày ở đâu, Ai hột vịt lộn.. hôn, Sài Gòn,
Cà phê và nhạc sến, Món ăn dĩ vãng, Chuyện của một thời, Phút cuối trong tầm
tay, tất cả đều kín đáo gửi đi một thông điệp.
Trong bài “Một chút Sài Gòn trong lòng Hamburg”, tác giả viết:
“Nửa đêm về sáng khi viết những dòng chữ này từ Hamburg, tôi
chợt thấy nhớ và thương Sài Gòn lận đận, nơi tôi sinh ra, lớn lên và sống gần hết
đời mình. Người ta cứ tiến, còn mình đứng yên, người bán buôn những hứa hẹn hoa
mỹ, nhưng rất nhiều người vẫn nuôi hy vọng đổi đời qua những tấm vé số.”
Tìm trong đổ nát trên phố Berg, Altona, Hamburg tháng 7 năm
1943, Nguồn: www.johndenugent.com
Tâm trạng ấy là có thật và chỉ khi xa nhà mới thấy thấm
thía.
Phải đi xa, ở xa có khi nửa vòng trái đất mới xót thương, tội
nghiệp cho Sài Gòn. Sài Gòn đau đáu trong giấc ngủ muộn mỗi khi nghĩ về.
Bản thân tôi, đã từng nhiều đêm thao thức, đôi khi phẫn nộ mỗi
khi đọc những tin tức xấu về đất nước mình. Có một thứ giao cảm rất gần gũi ở một
không gian xa cách mịt mù mới cảm nhận được. Thật đến lạ. Người Sài Gòn mí nhau
có thể chèn lách, vượt, đạp lên nhau để có thể lấn lên trước bất kể sinh mạng
người khác. Rồi cảnh tượng xấu nhất có thể xảy ra là thây người nằm chết, máu
me lênh láng đầy đường trước con mắt bàng quang của nhiều người.
Cái đó chỉ có thể xẩy ra ở Việt Nam.
Phần người ở xa không sao hiểu được! Đã có không biết bao
nhiêu điều như thế của Sài Gòn, nay không hiểu được.
Sự chia xẻ của tôi với tác giả có thể còn trở nên căn thiết
hơn khi tôi đọc bài Chuyện của một thời! Những kinh nghiệm của tác giả với
6 tháng đạp xích lô ghi lại những khoảnh khắc sống cũng như những nghịch cảnh
khi Sài Gòn không còn có tên là Sài Gòn nữa là những kinh nghiệm đắt giá, của một
người trong cuộc.
Tôi xin phép tác giả và độc giả ghi lại vài cảm nghĩ của tôi
về một Sai Gòn thân thương, một Sài Gòn:
Thóc thơm
Gạo trắng
Gió hiền
Miền Nam phì nhiêu nắng ấm.
Gạo trắng
Gió hiền
Miền Nam phì nhiêu nắng ấm.
(Trích bài thơ của Dương Như Nguyện.)
Một Sài Gòn chỉ tóm gọn trong có một câu:
Sài Gòn đẹp lắm, Sài Gòn ơi!
Sài Gòn, 1969. Nguồn: OntheNet
Phải thú thực với lòng mình-thú thực với tác giả và những ai
đọc những dòng này là khi về, đặt chân đến Sài Gòn, tôi có một cảm giác xa lạ
và có cảm tưởng cuộc sống ở nơi đây như thể có gì đổi khác.
Mọi sự như không còn như trước nữa, một cuộc sống như thể ở
một nơi nào khác.
Nó không phải là một Sài Gòn của tôi như thuở nào. Mà mục
đích về là đi tìm cái Sài Gòn của tôi.
Vẫn đường phố ấy, vẫn con đường Duy Tân nhưng nay nhà cửa
xây dựng san sát như chen chúc nhau để nhô lên. Nhộn nhịp hơn, nhưng cũng xô bồ
hơn.
Đi dọc đường Lê Văn Duỵệt cũ, nơi tôi đã lớn lên, tôi kịp nhận
ra, dọc hai bên đường, những sợi giây điện đủ loại, từng bó, từng chùm, chúng
xoắn vào nhau hằng trăm sợi, quấn chằng chịt lấy nhau, len lỏi vào tầng hai của
balcon mỗi nhà, chui vào ngõ hẻm, làm chĩu nặng nghiêng đổ các cột điện gỗ dưới
sự trì kéo của chúng.
Tôi có một cảm giác sợ hãi không cắt nghĩa được. Chúng là những
sợi gì? Tên chúng là gì? Chúng là ai?
Có thể là những sợi gian đối, lừa phỉnh! Sợi vu oan! Sợi tô
hồng! Sợi gian tham! Sợi bóc lột! Sợi giam hãm tù tội. Sợi trói buộc trói tay!
Sợi làm mất nhân phẩm con người!
Còn đâu là những sợi tơ trời, giăng mắc ràng buộc nhau trong
thân phân phận lứa đôi?
Sài Gòn bây giờ còn là những tiếng động miên tục, ngày đêm,
chu kỳ tần số âm thanh đập vào màng nhĩ trong lúc sống, lúc ăn nhậu, lúc tranh
cãi, lúc làm hùng hục, lúc yêu đương phiền muộn cũng như trong lúc ngủ.
Tôi chỉ thực sự thấy Sài Gòn im ắng có một lần, một lần duy
nhất mà thôi, trong cả năm. Đó là khoảng 5,6 giờ chiều ngày 30 tết.
Nhưng độ 10 giờ tối, nó lại trở về cơn mê điên cuồng của tiếng
động. Trong cơn mê của tiếng động,con người không còn có dịp để nghe tiếng của
con người cũng như tiếng động của thiên nhiên.
Đó là một cuộc sống vong thân của con người trong tiếng động.
Tiếng động đã trấn áp tất cả!!
Đến gà không thể gáy, chó không còn sủa. Nào có ai nghe được
tiếng chó tru ban đêm gọi đực. Tiếng u hờ bên sông.
Nói chi đến tiếng cựa mình của đài nụ nở hoa. Tiếng mưa rơi
âm thầm hoặc lộp bộp trên tàu lá chuối.
Hết rồi tiếng chim líu lo trên cành! Tôi chưa từng hiếm hoi
nghe được tiếng chim hót buổi sáng.
Giã từ tiếng gà gáy o o buổi sáng hay sau khi đạp mái.
Không bao giờ nữa còn nghe tiếng chuông nhà thờ buổi sáng
cũng như tiếng lục lạc của trâu về chuồng.
Một đất nước của những kẻ thâm niên làm lịch sử mà tên tuổi
giăng mắc đầy đường phố lại mâu thuẫn thay vắng bóng con người.
Người Pháp có Paris, Người Anh có Luân Đôn, người Tàu có Thượng
Hải, người Bắc có thể có Hà Nội! Chỉ có người Sài Gòn là không có Sài Gòn.
Hoặc giả vay mượn mà muôn đời vẫn xa lạ!
Cám ơn tác giả đã cho tôi mượn đất viết đôi dòng ở trên để
ghi lại một chút về Sài Gòn, của tác giả, cũng là của tôi, cũng là của những
người miền Nam, của những kẻ đã ra đi và của những kẻ còn ở lại.
Trước khi kết thúc bài viết, tôi chỉ thấy có một điều khác
biệt giữa tôi và tác giả. Đó là sự khác biệt về tâm trạng.
Là mỗi khi kết thúc một bài viết, tác giả thường bày tỏ một
tâm trạng buồn. Một cái buồn như thể một triết lý sống trong nỗi bất lực, buông
xuôi. Buồn là một thái độ và không bao giờ là một giải pháp, một cựa mình.
Nỗi buồn của tác giả làm tôi nghĩ đến cuốn sách mỏng, xuất bản
năm 2013 của Amai B’Lan: Nước mắt của Rừng. Nỗi buồn và nước mắt có giải
quyết được gì không?
Tôi ở xa. Tôi luôn luôn phẫn nộ. Chúa trước khi về cõi, chỉ
nhắc các đệ tử: Các con phải tỉnh thức và cầu nguyện. Đó là cách nói của
Chúa, cách nói của bậc thánh nhân.
Phần tôi, tôi có cách nói của tôi! Đất nước của chúng
ta vốn trước đây muốn vượt qua sông, qua ngòi, phương tiện duy nhất của chúng
ta là đi qua các cây cầu khỉ (monkey bridge)!
Đừng vội quên quá khứ của mình, đừng vội quên cha ông mình.
Đừng vội quên cội nguồn. Vì thế, trước những sai trái làm tác hại đến đất
nước, con người. Tôi bày tỏ sự phẫn nộ. Biết nói không, biết chối từ, biết lên
tiếng khi cần lên tiếng. Cách nói ấy động não và bắt phải cựa mình. Đối với
tôi, trên tất cả mọi thứ, vẫn là con người.
Phần tác giả, xin bạn đọc hoan hỉ cầm lấy và đọc tác giả,
như tôi đã đọc.
© 2016 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: Bài do tác giả gởi. DCVOnline hiệu đính và
minh hoạ.
Bài viết "Về Đâu Con Trai Hà Nội" làm tôi...chột dạ quá :).
RépondreSupprimer