Trong những môn học mà học trò đời nay chỉ chú trọng vì là chuyện bấc đắc dĩ, đó là môn lịch sử.
It́ ai biết tầm quan trọng của những bài học địa lý hay lịch sử nêu học trò không thích dấn chân vào con đường làm chính trị.
Ngành khoa học mở ra cho học trò con đường tương lai bảo đảm hơn là chuyện ngoại giao hay vật lộn tranh đấu cho lý tưởng mà mình bảo vệ hay tranh đấu.
Khi nói về lịch sử, nhất là những ông trạng nguyên của nước ta ngày xưa, thì Mạc Đĩnh Chi quả thật là người có tài.
Nếu đời sau lúc nào cũng ghi nhớ công ơn tiền nhân lập nước, thì phải giữ nước và cho dù nước ta có nhỏ bé đến đâu, nó cũng là nó nó sinh ra người Việt của nước Việt Nam.
Mời quý anh chị đọc một câu chuyện về danh nhân của nước ta thời xưa.
Cám ơn anh Đỗ Quý Bái đã góp công trong việc nhắc nhở tài liệu văn học cho bài sưu tầm này.
Caroline Thanh Hương
Lưỡng quốc
trạng nguyên và câu đố chết người
"Há rằng
trống rỗng bất tài
Thuyền quyên
lắm kẻ lỡ thời thương thay.
Nếu ta giữ mực
thẳng ngay.
Mưa sa gió
táp xem nay cũng thường".
Những câu
văn trong bài phú Ngọc tỉnh liên (Bông sen trong giếng ngọc) gắn liền vị
trạng nguyên nổi tiếng tài năng nhưng xấu xí trong lịch sử khoa cử nước ta – Mạc
Đĩnh Chi.
Theo cuốn Danh
nhân Hà Nội do giáo sư Vũ Khiêu biên soạn, vị "Lưỡng quốc trạng
nguyên" này sinh năm 1280 ở làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải
Dương. Ông tên tự là Tiết Phu. Từ nhỏ, ông đã thông minh hơn người, có tinh thần
tự học cao và từng theo học Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc.
Trong Đại
Việt Sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên viết: “Ích Tắc là con thứ của Thượng
hoàng, thông minh hiếu học, thông hiểu lịch sử, lục nghệ, văn chương nhất đời.
Dù nghề vặt như đá cầu, đánh cờ, không nghề gì không thông thạo; từng mở học đường
ở bên hữu phủ đệ, tập hợp văn sĩ bốn phương cho học tập, cấp cho ăn mặc, đào tạo
thành tài như Mạc Đĩnh Chi ở Bàng Hà, Bùi Phóng ở Hồng Châu... gồm 20 người, đều
được dùng cho đời”.
Trạng
nguyên Mạc Đĩnh Chi nổi tiếng qua những câu chuyện đi sứ. Ảnh minh họa: Truyện
xưa tích cũ.
|
Năm 1304, đời
vua Trần Anh Tông, triều đình mở khoa thi, Mạc Đĩnh Chi đỗ trạng nguyên. Ban đầu,
nhà vua chê ông thấp bé, xấu xí. Vị trạng nguyên 24 tuổi bèn làm bài phú Ngọc
tĩnh liên, tự ví mình như sen.
Theo Lịch
triều hiến chương loại chí do Phan Huy Chú biên soạn, vua Anh Tông xem
xong, thán phục trước tài văn thơ của Mạc Đĩnh Chi, thăng ông làm Thái học sinh
dũng thủ, sung chức Nội thư gia.
4 năm sau, Mạc
Đĩnh Chi đi sứ nhà Nguyên mừng vua Nguyên Vũ Tông lên ngôi. Tại thời điểm đó,
quan hệ giữa hai triều đình không mấy ôn hòa nên sứ thần thường bị làm khó.
Tuy nhiên,
trong hoạt động bang giao, vị trạng nguyên trẻ tuổi của nước ta đã chứng tỏ được
tài năng, khí phách.
Chuyện kể rằng,
trong buổi tiếp kiến đầu tiên, thấy sứ thần Đại Việt nhỏ bé, người Nguyên tỏ ý
khinh thường bèn ra câu đối: “Nhật hỏa vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thố” (Mặt
trời là lửa, mây là khói, ban ngày thiêu cháy vầng trăng – hàm ý nước lớn đủ sức
thâu tóm nước nhỏ).
Mạc Đĩnh Chi
bình tĩnh đối đáp: “Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô” (Trăng là
cung, sao là đạn, chiều tới bắn rơi Mặt trời).
Dù tức giận,
vua Nguyên vẫn phải thừa nhận câu đối của ông rất hay.
Cũng trong lần
đi sứ này, nhờ tài ứng đối nhanh nhạy, Mạc Đĩnh Chi được vua Nguyên thán phục,
tự tay hạ bút phong "Lưỡng quốc trạng nguyên". Trong lịch sử bang
giao hai nước, ông là người duy nhất nhận danh hiệu này.
Những chuyến
đi sứ của vị trạng nguyên lỗi lạc cũng để lại nhiều giai thoại đặc sắc.
Tương truyền,
khi sứ bộ Đại Việt cáo biệt triều đình nhà Nguyên để về nước, Mạc Đĩnh Chi nhận
một câu đố hiểm hóc mà chỉ cần trả lời sai, ông chắc chắn mất mạng.
Họ đố: “Có một
chiếc thuyền, trong đó có vua, thầy học, và cha mình (quân, sư, phụ) bơi đến giữa
sông chẳng may gặp sóng lớn đắm thuyền. Khi ấy, ngươi ở trên bờ ra cứu, nhưng
chỉ có thể cứu được một người thôi, thế thì ngươi cứu ai?”.
Rõ ràng, đây
là một trường hợp khó chu toàn trung, hiếu, nghĩa. Trước nguy cơ bị xử tử, tác
giả Ngọc tỉnh liên không chút nao núng đưa ra đáp án thích hợp nhất.
“Thần đứng
trên bờ, thấy thuyền bị đắm, tất phải vội vã nhảy xuống sông bơi ra cứu, hễ thần
gặp ai trước thì thần cứu người ấy trước, bất kể người ấy là vua, thầy học hay
cha mình”, ông nói.
Câu trả lời
rất chuẩn này không chỉ thể hiện sự nhanh trí mà còn cho thấy thái độ bình tĩnh,
gặp nguy không loạn của trạng nguyên nước ta.
Ngoài ra,
liên quan câu chuyện đi sứ, chuyện kể rằng, sứ thần Cao Ly mến mộ tài năng, đức
độ của sứ thần Đại Việt trẻ tuổi nên mời Mạc Đĩnh Chi qua Cao Ly chơi và gả
cháu gái cho ông. Vị thiếp này sinh một nam, một nữ.
Sau này, ông
Mạc Văn Kết, hậu duệ Lưỡng quốc trạng nguyên xác minh câu chuyện.
Mạc Đĩnh Chi
làm quan dưới 3 triều vua Trần Anh Tông, Trần Minh Tông và Trần Hiển Tông. Nhờ
tài năng, tính ngay thẳng, liêm khiết, ông được vua nhà Trần trọng dụng, hậu
đãi.
Theo các nhà
sử học, trong số 46 vị trạng nguyên thời phong kiến nước ta, Mạc Đĩnh Chi là một
trong số những người được dân chúng khâm phục và ca tụng đồng thời sáng tạo nhiều
giai thoại giàu trí tuệ nhất.
Mạc Đĩnh Chi
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mạc Đĩnh Chi (chữ Hán: 莫挺之, 1280 - 1346), tên tự là Tiết Phu (節夫), hiệu là Tích Am (僻庵) là một quan đại thần triều Trần trong lịch sử Việt Nam[1].
Mục lục
Tiểu sử
Mạc Đĩnh Chi là người hương Lũng Động, huyện Chí Linh, lộ Hải Đông (tỉnh Hải Dương hiện nay), tổ tiên là Mạc Hiển Tích đỗ khoa Thái học sinh năm Bính Dần đời vua Lý Nhân Tông[2]. Ông thông minh hơn người, nhưng tướng mạo xấu xí.[1]
Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc mở học đường, tập hợp văn sĩ bốn phương, chu cấp cho ăn mặc, đào tạo nhiều nhân tài, trong đó có Mạc Đĩnh Chi. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng:Ích
Tắc là con thứ của Thượng hoàng, thông minh hiếu học, thông hiểu lịch
sử, lục nghệ, văn chương nhất đời. Dù nghề vặt như đá cầu, đánh cờ,
không nghề ghì không thông thạo; từng mở học đường ở bên hữu phủ đệ, tập
hợp văn sĩ bốn phương cho học tập, cấp cho ăn mặc, đào tạo thành tài
như bọn Mạc Đĩnh Chi ở Bàng Hà, Bùi Phóng ở Hồng Châu v.v... gồm 20
người, đều được dùng cho đời.[3]
Sự nghiệp
Năm 1304 đời vua Trần Anh Tông niên hiệu Hưng Long thứ 12, triều đình mở khoa thi Cống sĩ lấy 44 người đỗ Thái học sinh (tiến sĩ)[3].
Mạc Đĩnh Chi đỗ Trạng nguyên; Bùi Mộ đỗ bảng nhãn, Trương Phóng đỗ thám
hoa. Khi mới đỗ nhà vua chê ông xấu, Mạc Đĩnh Chi bèn làm bài phú Ngọc tỉnh liên (Sen trong giếng ngọc) để tự ví mình với sen. Trong bài phú có đoạn:
- Há rằng trống rỗng bất tài
- Thuyền quyên lắm kẻ lỡ thời thương thay.
- Nếu ta giữ mực thẳng ngay.
- Mưa sa gió táp xem nay cũng thường
Vua Trần Anh Tông xem rồi khen hay, thăng làm Thái học sinh dũng thủ, sung chức Nội thư gia.[1]
Tham dự triều chính
Thời vua Trần Minh Tông,
Mạc Đĩnh Chi càng được tin dùng hậu đãi. Ông là người liêm khiết, vua
biết, sai người đem 10 vạn quan tiền để trong cửa nhà ông, Đĩnh Chi đem
việc đó tâu nhà vua, Vua nói:Không ai nhận tiền ấy, thì cho khanh lấy mà chi dùng.[2]
Mạc Đĩnh Chi cùng với các vị Trần Thời Kiến, Đoàn Nhữ Hài, Độ Thiên Lư, Nguyễn Dũ, Phạm Mại, Phạm Ngộ, Nguyễn Trung Ngạn,... được sử quan Ngô Thì Sĩ nhận định trong Việt sử tiêu án: Các ông này làm quan có phong độ, ngạnh trực dám nói thẳng, có phong độ đại thần và nhân tài thịnh nhất hơn triều các vua khác.[2]
Thời vua Trần Hiến Tông ông làm chức Nhập nội hành khiển, Lang trung hữu ty, chuyển sang làm Lang trung tả ty trải đến chức Tả bộc xạ ở hàng quan to.[1]
Đi sứ nhà Nguyên
Năm 1308 đời vua Trần Anh Tông, Mạc Đĩnh Chi đi sứ nhà Nguyên, mừng vua Nguyên Vũ Tông mới lên ngôi [a]. Đó là lúc mới 30 năm sau chiến tranh chống quân Nguyên thứ 3 (1287-1288), sứ bộ bị nắn gân cốt rất mạnh.
Tuy nhiên trong hoạt động bang giao ông đã tỏ rõ khí phách và tài
năng của mình. Hoạt động và tài năng văn chương của ông đã để lại nhiều
giai thoại nổi tiếng.
Sau đó năm Nhâm Tuất (1322) ông đi sứ lần 2, nhưng chưa tìm được nguồn tin.
Các giai thoại trong chuyến đi sứ nhà Nguyên
Tại cửa ải
Thử thách văn chương đầu tiên là, do trời mưa nên Sứ bộ đến cửa ải Pha Lũy (nay là ải Nam Quan) bị trễ. Quan trấn ải phía Trung Quốc không chịu mở cổng thành, song vì biết danh tiếng ông, nên thử tài bằng câu đối:
- Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan
- Nghĩa là: Qua cửa quan trễ, cửa quan đóng, mời khách qua cửa quan
Ông đã đáp lại:
- Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối
- Nghĩa là: Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin tiên sinh đối trước
Quan giữ ải phục tài, lập tức mở cửa ải đón sứ bộ và tiếp đãi rất long trọng.
Buổi tiếp kiến đầu tiên
Khi đến Yên Kinh, thấy Mạc Đĩnh Chi người thấp bé, nên người Nguyên tỏ ý khinh khi. Trong buổi tiếp kiến đầu tiên người triều Nguyên đã ra câu đối:
- Nhật hoả vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thố
- Nghĩa là: Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày thiêu cháy vừng trăng. Hàm ý là đại quốc đủ sức đốt cháy nước nhỏ.
Mạc Đĩnh Chi đã đối lại:
- Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô
- Nghĩa là: Trăng là cung, sao là đạn, chiều tới bắn rơi mặt trời.
Lời đối khiến vua Nguyên tức, nhưng phải thừa nhận là chuẩn không cần chỉnh.
Bức tranh chim sẻ ở phủ Tể tướng
Khi Tể tướng triều Nguyên
mở tiệc chiêu đãi sứ bộ Việt, ông thấy trong phủ Tể tướng có bức tranh
thêu chim sẻ vàng đậu trên cành trúc rất đẹp. Đĩnh Chi kéo con chim sẻ
xuống xé nát ra, người Nguyên hỏi cớ sao? Ông nói:Cổ nhân có vẽ mai
và tước, chưa thấy vẽ trúc và tước (sẻ). Trúc là quân tử, tước là tiểu
nhân, bức trướng thêu này là đưa tiểu nhân đặt lên trên quân tử, nên tôi
vì Thánh triều mà trừ mối tệ ấy đi.[2]
Bài minh cái quạt
Khi vào chầu vua Nguyên, có người ngoại quốc dâng cái quạt, ông phụng mệnh làm bài minh vào cái quạt. Sứ thần nước Cao Ly làm xong trước, có 4 câu, 16 chữ, Đĩnh Chi trông thế bút viết, biết được bài của sứ thần Cao Ly
rồi, liền theo ý mà làm phiên câu văn đi, lại dẫn thêm 3 câu ở trong
truyện làm câu kết, được khen thưởng hơn, đủ biết ông có tài và nhanh
lắm, người Nguyên càng thêm thán phục. Bài minh của sứ Cao Ly:
- Uẩn long trùng trùng, Y Doãn, Chu Công.
- Vũ tuyết thê thê, Bá Di, Thúc Tề[4].
Bài của Đĩnh Chi:
- Lưu Kim thước thạch thiên địa vi lô, nhĩ ư tư thời hề Y Chu cự nho;
- Bắc phong kỳ thê vũ tuyết tái đồ, nhĩ ư tư thời hề Di Tề ngã phu.
Văn tế công chúa
- Thanh thiên nhất đóa vân,
- Hồng lô nhất điểm tuyết,
- Thượng uyển nhất chi hoa,
- Dao trì nhất phiến nguyệt.
- Y ! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết !
- Dịch nghĩa:
- Một đám mây trên trời
- Một bông tuyết trong lò
- Một nhành hoa trong vườn
- Một mặt trăng trong hồ!
- Ôi ! Mây tản, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết !
Ý rằng: trên trời có một đám mây, trong lò lửa có một bông tuyết,
trong vườn hoa có một nhành hoa, trong hồ nước có một mặt trăng! than
ôi! mây tan hết, tuyên tan rồi, hoa tàn héo, trăng không tròn![6]
Câu đố chết người
Khi Sứ bộ bái biệt vua Nguyên để về nước, thì họ ra câu đố hiểm hóc:
- Có một chiếc thuyền, trong đó có vua, thầy học, và cha mình (quân, sư, phụ) bơi đến giữa sông chẳng may gặp sóng lớn đắm thuyền. Khi ấy ngươi ở trên bờ ra cứu, nhưng chỉ có thể cứu được một người thôi, thế thì ngươi cứu ai?
Vào thời kỳ đó, trả lời sai sẽ bị tội phanh thây, chém đầu hoặc lưu
giữ lại, dẫn đến nước Việt mất nhân tài. Nhưng ông đã trả lời:
- Thần đứng trên bờ, thấy thuyền bị đắm, tất phải vội vã nhẩy xuống sông bơi ra cứu, hễ thần gặp ai trước thì thần cứu người ấy trước, bất kể người ấy là vua, thầy học hay cha mình.
Câu trả lời chuẩn, nên ông không bị phiền phức và được ra về.
Gia đình
- Tổ tiên là Mạc Hiển Tích đỗ khoa Thái học sinh năm Bính Dần đời vua Lý Nhân Tông[2].
- Đĩnh Chi sinh ra Cao, Cao sinh ra Thuý, Thuý sinh ra Tung, dời sang ở xã Lan Khê, huyện Thanh Hà rồi sinh ra Bình, Bình lại dời sang xã Cổ Trai, huyện Nghi Dương rồi trú tại đó. Bình sinh ra Hịch, Hịch lấy con gái trưởng của Đặng Xuân người cùng xã, sinh được ba con trai, con trưởng là Đăng Dung, con thứ là Đốc Tín, con út là Quyết. Đăng Dung có sức khoẻ, vì đỗ võ cử, được sung vào quân túc vệ, đến đây phong cho chức này.[3]
- Năm 1406, nhà Minh xâm lược Đại Ngu, Mạc Địch, Mạc Thúy, Mạc Viễn và Nguyễn Huân mạo nhận là họ Mạc đều là những kẻ bất đắc chí, đón hàng quân Minh, người Minh đều trao cho quan chức. Sau Thúy làm đến tham chính; Địch làm đến chỉ huy sứ; Viễn làm đến diêm vận sứ; Huân làm đến bố chính; (Thúy, Địch, Viễn là cháu Mạc Đĩnh Chi).[3]
Hậu duệ ở Triều Tiên
Trong thời gian đi sứ Trung Hoa, sứ bộ nước Việt giao lưu rất thân thiết với sứ bộ nước Cao Ly. Sự tương đồng hoàn cảnh của hai nước trước cường quốc Trung Hoa, cùng với tài năng của Mạc Đĩnh Chi làm sứ thần Cao Ly
mến mộ. Vị sứ thần Cao Ly đã mời ông sang chơi và gả cháu gái cho ông.
Người thiếp này sinh được 1 nữ, và lần ông đi sứ thứ hai thì sinh 1 nam,
từ đó lập ra một dòng họ ở bên đó.[7][8][9]
Một hậu duệ của ông đã tìm đến Việt Nam, bút đàm hán tự với ông Lê
Khắc Hoè. Sau đó ông Hòe có viết bài "Người Triều Tiên đi bán sâm là hậu
duệ của Mạc Đĩnh Chi", muốn tìm họ Mạc để nhận họ, đăng trên An Nam tạp chí số 4 năm 1926 [b]. Sau này Vũ Hiệp sưu tập và đăng trên tạp chí Nghiên cứu Sử số 2, 1996 tại Sài Gòn.
Chỉ dẫn
Wikisource có các tác phẩm gốc nói đến hoặc của:
|
- ^ Nguyên Vũ Tông (1281-1311) là vua thứ ba triều Nguyên, trị vì 1307-1311.
- ^ Theo tham khảo [9] thì nhan đề bài là "Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi Có Hậu Duệ Ở Cao Ly Từ Thế Kỉ 14 Đến Nay".
Tham khảo
- ^ a ă â b Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 1, Soạn giả Phan Huy Chú, Dịch giả Viện sử học Việt Nam, Nhà xuất bản giáo dục, 2005, trang 264
- ^ a ă â b c d Việt sử tiêu án, Soạn giả Ngô Thì Sĩ, Dịch giả: Hội Việt Nam Nghiên cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu, Nhà xuất bản: Văn Sử 1991, Chương Anh Tông Hoàng Đế
- ^ a ă â b Đại Việt sử ký toàn thư, Soạn giả Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên..., Dịch giả Viện sử học Việt Nam, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993
- ^ Khi nóng bức thì quạt đắc dụng như Y Doãn, Chu Công, khi mùa đông giá rét thì xếp xó như Bá Di, Thúc Tề bị chết đói
- ^ Ý đoạn trên cũng như bài của sứ Triều Tiên, có thêm được đoạn chữ ở sách Luận Ngữ, ý là: Ai dùng ta thì ta làm, ai không dùng ta thì ta để đó. Điều ấy chỉ mày với ta mới có được thôi. Hay hơn về câu này mà lại được là chữ sách cổ nhân, dùng rất đắt.
- ^ Nguyễn Hữu Tiến. Nam Phong tạp chí, số 92 tháng 02 năm 1925.
- ^ Hậu duệ kể chuyện Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi lấy vợ Cao Ly. doisongphapluat, 14/09/2014. Truy cập 10/02/2016.
- ^ Thái Doãn Hiểu. Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi từng làm rể quý Cao Ly. mactrieu, 24/08/2015. Truy cập 10/02/2016.
- ^ a ă Trần Vinh. Hai giòng Họ Lý Việt Nam đã vượt biên đến Đại Hàn từ thế kỉ 12 và 13. Tìm đến "Ghi chú 2". Truy cập 10/02/2016.
- Đại Việt sử ký toàn thư, Soạn giả Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên,...; Dịch giả Viện sử học Việt Nam; Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội, 1993.
- Việt sử tiêu án, Soạn giả Ngô Thì Sĩ,Dịch giả: Hội Việt Nam Nghiên cứu Liên Lạc Văn hóa Á Châu. Nhà xuất bản: Văn Sử 1991.
- Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 1, Soạn giả Phan Huy Chú, Dịch giả Viện sử học Việt Nam; Nhà xuất bản giáo dục, 2005.
Lý Trần ngũ đại gia
|
---|
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire