Translate

Libellés

découvert (110) thơ; văn; nhạc; ảnh chụp; Caroline Thanh Hương (68) photographie (59) ký ức Việt Nam (44) santé (36) nghe đọc truyện hay (35) touriste (35) science naturelle (29) événement (28) nhạc Việt (27) nhạc Phạm Đức Nghĩa (20) art culinaire (19) philosophie (15) psychologie (15) văn chương (14) xã hội (12) nhạc không lời (11) science (11) ảnh Hương Kiều Loan (10) science économique (9) đọc và nghe đọc truỵên hay (9) xã hội Mỹ (8) aventure (6) news (6) société (6) thơ Đỗ Quý Bái (6) économie kinh tế (5) lịch sử (5) show Caroline Thanh Hương (5) sử Việt Nam (5) art (4) du lịch (4) littérature vietnamienne (4) Education (3) littérature (3) thơ Trần trọng Thiện (3) Canada (2) Les Contes vietnamiens truyện cổ tích việt nam (2) cách làm thơ hay và đúng (2) histoire secrète (2) l'histoire de France (2) mythe (2) technologie (2) thơ Huy Văn (2) thơ Hư Hao (2) tùy bút Caroline Thanh Hương (2) văn (2) Cần Thơ (1) David Oïstrakh (1) Dì Bùi Lệ Khanh (1) Economie (1) Montréal (1) Petrus Ky (1) Phan Thuận Breton (1) Québec (1) Stephen Hawking (1) Thơ văn Nguyễn Kiề (1) Trung Tâm Giáo Dục Hồng Bàng (1) Tạp Chí Dân Văn (1) Văn Xuân Vũ (1) astuce (1) bình luận Thuỵ Khê (1) ca sĩ Phi Nhung (1) ca sĩ Phạm Khải Tuấn (1) chân dung France Gall (1) fashion Jean-Paul Gaultier (1) fashion áo dài Việt Nam (1) học tiếng anh (1) informatique (1) ingénierie (1) nhạc Ngô Hồng Quang (1) nhạc Phạm Mỹ Lộc (1) nhạc ngoại quốc (1) nhạc ngoại quốc Steve Earle (1) photographie Vu Cong Hien (1) sport (1) thơ Chẩm Tá Nhân (1) thơ Lê Quang Chiểu (1) thơ Nhất Hùng (1) thơ Thanh Thanh. (1) thơ Trần Văn Lương (1) truyện ngắn; thơ Trần Văn Lương (1) văn Huy Phương (1) văn Thế Lữ (1) văn Tràm Cà Mau (1) văn chương văn nghệ Đoàn Thế Ngữ (1) văn câu đối (1) văn Đoàn Xuân Thu (1) xem phim hay tiếng ngoại quốc (1) Đại Học Văn Khoa (1)

mardi 26 juillet 2016

Đọc những bài viết của Phạm Đình Lân về Việt Ngữ và coi 1 youtube người mỹ nói tiếng việt Thị Nghè, Sài Gòn.

Kiính gửi quý anh chị bài sưu tầm của ông Phạm Đình Lân.

Qua bài viết của tác giả, chúng ta sẽ hiểu biết thêm về lịch sử, ngôn ngữ và từ đó sẽ thông hiểu thêm về sự bế tắc hay không của tiếng việt qua bao thế hệ.

Có thể những bài viết như thế này phải có những quyển sách văn học hay sử địa phổ biến trong các nhà trường để học trò xưa và nay có thể nghiên cứu.

Nhưng cũng rất may mắn là cái học hay biểu biết đó, ngày hôm nay còn được internet ghi lại cho chúng ta tham khảo và không bị gò bó bởi nhà trường của bất cứ chế độ nào.

Chân thành cám ơn ông Phạm Đình Lân và xin mời quý anh chị theo dỏi bài viết dưới đây.

Caroline Thanh Hương
VIỆT NGỮ THUẦN VIỆT? Phạm Đình Lân
VIỆT NGỮ THUẦN VIỆT?
          Trên thế giới có đến 6.900 ngôn ngữ khác nhau bao gồm ngôn ngữ chính thức và các thổ ngữ. Trung Hoa và Ấn Độ là hai quốc gia rộng lớn và đông dân. Trung Hoa có từ 400 đến 500 thổ ngữ khác nhau. Ấn Độ có 2.000 thổ ngữ. Hiến pháp Ấn Độ phải ấn định tiếng Hindi và tiếng Anh là ngôn ngữ chánh thức được lưu dùng trong nước. Phi Luật Tân là quần đảo có trên 7.000 hòn đảo diện tích lớn nhỏ khác nhau. Họ có 13 ngôn ngữ lưu dùng trong nước. Quan trọng nhất là tiếng Tagalog. Ngoài ra còn có 171 thổ ngữ khác nhau được nói ở các địa phương rải rác khắp quần đảo. Trường hợp Indonesia cũng có những phức tạp ngôn ngữ tương tự. Ở Indonesia có 583 ngôn ngữ và thổ ngữ. Tiếng Javanese được 85 triệu người nói.

Cùng sống chung trong một quê hương nhưng ngôn ngữ khác nhau nên sự thông hiểu và hòa hợp với nhau cũng có ít nhiều trở ngại. Trung Hoa là quốc gia có quá khứ lịch sử lâu đời. Họ có chữ viết nhưng cách đọc khác nhau vì các vùng lãnh thổ có tiếng nói riêng. Cuộc cách mạng văn hóa Trung Hoa ra đời không đầy một thế kỷ sau khi Hu Shi (Hồ Thích), tốt nghiệp đại học ở Hoa Kỳ, và Chen Duxiu (Trần Độc Tú), tốt nghiệp đại học ở Nhật và Pháp về nước. Đến khi Mao Zedong (Mao Trạch Đông) thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc năm 1949, tiếng Quan Thoại (Mandarin) ở miền Bắc được xem là tiếng thống nhất của lục địa Trung Hoa.

Ở điểm này người Việt Nam khoan vội tự hào vì giữ được tiếng nói, mặc dù không có chữ viết sau trên 1.000 năm bị người Trung Hoa đô hộ, vì người Việt như những tộc trong nhóm Bách Việt (Po Yue) ở phía nam sông Yang Tze (Dương Tử) học chữ Hán nhưng phát âm theo ngôn ngữ của tộc mình. Các nhà nho Việt Nam đọc và hiểu chữ Hán nhưng không thể đàm thoại với người Hoa. Nhà cách mạng Phan Bội Châu (Sào Nam) chỉ bút đàm khi đàm đạo với Leang Ki-chao (Lương Khải Siêu) hay Sun Yat-sen (Tôn Dật Tiên). Tiếng Việt nguyên thủy bắt nguồn từ người Mường không liên hệ với ngôn ngữ Môn-Khmer. Người Mường là tác giả của trống đồng, những chuyện cổ tích Việt Nam và là những người rút vào rừng sâu để trường kỳ kháng chiến chống Bắc xâm. Những Động Khuất Liêu, Động Hoa Lư, Động Lam Sơn như nhắc nhở chúng ta về liên hệ Mường của dân tộc. Không phải không duyên cớ mà Ngô Sĩ Liên đề cao người Mường trong Đại Việt Sử Ký, một cuốn sử có giá trị được soạn thời Hậu Lê

Sau 11 thế kỷ Bắc thuộc trong ngôn ngữ Việt có rất nhiều chữ Hán. Tiền nhân chúng ta học chữ Hán. Các kỳ thi tam trường đều được mô phỏng theo Trung Hoa. Chữ Hán được các thầy Đồ (sinh đồ: tú tài) giảng dạy ở các tư thục tại gia, được dùng trong các kỳ thi, trong các tấu, sớ của triều đình và văn thơ hành chánh trong nước. Bên cạnh những từ ngữ nôm na có thêm từ ngữ Hán-Việt phát âm giống tiếng Guangdong (Cantonese - Canton - Kuangchou - Guangzhou, Quảng Châu, thủ phủ của tỉnh Guangdong) đại cương như:
Việt
Hán-Việt
(phần lớn là âm theo tiếng Quảng Đông)
Vua
Một
Hai
Ba
Bốn
Ngày
Thịt

Trâu
Trời
Đất
Con
Trước
Sau
Vương
Nhất
Nhị
Tam
Tứ
Nhật
Nhục
Ngưu
Thủy Ngưu
Thiên
Địa
Tử
Tiền
Hậu v.v…


Một số từ ngữ Trung Hoa liên quan đến thức ăn hay cờ bạc được Việt hóa và dùng trong đời sống hàng ngày như hoành thánh, dầu cháo quảy, bánh bao, xá xíu, bò bía, tài xỉu (đại tiểu), dì dách, xập xám v.v…

Hầu hết các từ kép, từ chánh trị, luật học, y khoa, dược học, toán học, âm nhạc, nghệ thuật, kiến trúc, tôn giáo, lịch sử, địa lý, địa chất học... đều có gốc Hán–Việt. Ông Hoàng Xuân Hãn soạn ra Danh Từ Khoa Học bằng tiếng Việt dịch từ tiếng Pháp bằng cách tìm những từ ngữ Hán-Việt tương đương. Ông là nhà Tây học nhưng biết chữ Hán. Tên khoa học của thảo mộc trên thế giới được mang tên La Tinh và Hy Lạp. Tên dược thảo ở Đông Phương đều có tên chữ Hán hay tiếng Hindi, Sanskrit.

Đạo Phật có ảnh hưởng rộng rãi ở Việt Nam. Nhưng Phật Giáo Đại Thừa ở Việt Nam do các sư tăng Trung Hoa truyền giảng. Kinh Phật được viết bằng chữ Hán. Các bài chú bằng tiếng Sanskrit được các sư tăng Trung Hoa âm trại ra. Do đó trong ngôn ngữ Việt Nam không có nhiều từ xuất phát từ tiếng Hindi. Sidharta âm thành Tất Đạt Ta; Sakya Muni (nhà hiền triết tộc Sakya) trở thành Thích Ca Mâu Ni; Nirvana: Niết Bàn; karma: nghiệp chướng; bodhi: cây Bồ Đề; Mahayana: đại thừa; Hinayana: tiểu thừa v.v…

Trong quá trình Nam tiến Tiếng Việt được phong phú hóa nhờ tiếp xúc với người Chăm thuộc văn hóa Ấn Độ và Hồi Giáo, với người Khmer chịu ảnh hưởng của Ấn Giáo rồi Phật Giáo Tiểu Thừa và nhờ sự né tránh việc dùng tên vua, chúa, hoàng hậu, các con và thành viên liên hệ đến hoàng tộc.

Những địa danh Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết đều có âm hưởng của ngôn ngữ Chăm, một ngôn ngữ có nhiều liên hệ với ngôn ngữ Ấn Độ và Sanskrit (Phạn). Quốc hiệu Champa (Chiêm Thành) có nghĩa là hoa sứ theo tiếng Ấn Độ.

Nhiều địa danh hay tên gọi ở Nam Kỳ mang âm hưởng của tiếng Khmer như Mỹ Tho (Mêsa: Bà Trắng), Sa Đéc (Phsar Deck: chợ sắt), Bạc Liêu (Po-loeuh: cây da cao lớn), Cà Mau (Tuk khmau: nước đen), thốt nốt (thnot), bình bát (mean bat), xoài (Sway), muom (muỗm - xoài muỗm) v.v…

Dưới chế độ phong kiến thảo dân không được nói đến tên vua, hoàng hậu hay các thành viên trong hoàng tộc. Thí sinh phạm trường qui tức khắc bị đánh rớt vì đó là một sự hỗn láo đối với giới cầm quyền tự xem đã nhận Thiên mạng từ Trời. Từ đó ta có nhiều từ đồng nghĩa nhưng không đồng âm. Nhân trở thành nhơn; Nghĩa: Ngãi; Đức: Đước; Phúc: Phước (chữ lót của họ Nguyễn); Đàm: Đờm; Hoa: Huê; Hồng: Hường; Nhậm: Nhiệm; Tôn: Tông v.v... Bà Hồ Thị Hoa, người huyện Bình An, tỉnh Biên Hòa, là hoàng hậu dưới triều Minh Mạng. Vì bà tên Hoa nên Cầu Hoa phải đổi thành Cầu Bông; Thanh Hoa đổi thành Thanh Hóa (thêm dấu); Hoa Kiều đổi thanh Huê Kiều; Hoa lợi thành Huê lợi v.v... Vào năm 1862 Pháp chiếm ba tỉnh Nam Kỳ. Trần Tử Ca, một viên chức xã thôn ở Hóc Môn, ra hợp tác với Pháp, theo đạo Thiên Chúa và được vào ngạch đốc phủ sứ, một ngạch hành chánh cao cấp dành cho người bản xứ hợp tác với Pháp được thiết lập theo lời đề nghị của Tôn Thọ Tường. Ông được gọi là Phù Ca. Vì ông tên Ca dân chúng trong vùng Sài Gòn – Gia Định không dám gọi xoài thanh ca mà gọi ngắn gọn là xoài thanh.

Võ Trường Toản, một người Minh Hương, được xem là một đại phu tử ở Nam Kỳ vào thế kỷ XVIII. Người Minh Hương góp phần đắc lực vào việc khai phá châu thổ sông Đồng Nai và sông Cửu Long. Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định đều là môn sinh của đại phu tử Võ Trường Toản. Cả ba vị nầy đều là những người lập nhiều công to khi phục vụ chúa Nguyễn Ánh trong thời kỳ nội chiến giữa dòng Nguyễn Phúc và nhà Tây Sơn. Dưới triều vua Minh Mạng, Phan Thanh Giản, một người Minh Hương khác, đậu tiến sĩ. Ông là người Nam Kỳ đầu tiên đậu tiến sĩ dưới triều Nguyễn. Những nhà nho gốc Minh Hương vừa kể khác với các nhà nho Việt Nam vì họ biết chữ Hán và phát âm theo người Việt lẫn người Hoa.

Chữ quốc ngữ La Tinh hóa hiện hành là công trình nghiên cứu của giáo sĩ Alexandre de Rhodes vào thế kỷ XVII để cho việc truyền đạo Thiên Chúa được dễ dàng. Vào thời nầy chúa Trịnh ở Đàng Ngoài cấm đạo Thiên Chúa. Người theo đạo bị khắc trên trán dòng chữ học theo Hòa Lan đạo vì chúa cho rằng đạo Thiên Chúa là đạo của người Hòa Lan. Thực tế người Hòa Lan theo đạo Tin Lành. Họ nặng về việc kinh thương hơn truyền đạo như người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Pháp. Vì chúa Trịnh cấm truyền giảng đạo Thiên Chúa nên chữ quốc ngữ chưa phổ biến mạnh trong cộng đồng giáo dân Thiên Chúa ở Đàng Ngoài. Ở Nam Kỳ giáo sĩ Pigneau de Behaine (Bá Đa Lộc) giảng đạo Thiên Chúa ở vùng Hòn Đất, Hà Tiên vào thế kỷ XVIII. Chữ quốc ngữ được phổ biến cho giáo dân vùng Vịnh Xiêm La (Vịnh Thái Lan bây giờ). Giáo sĩ Pigneau de Behaine tìm cách vận động với triều đình Pháp thời vua Louis XVI giúp đỡ cho Nguyễn Ánh đánh nhà Tây Sơn. Nếu Nguyễn Ánh thành công, Pháp có ảnh hưởng tôn giáo lẫn kinh tế-chánh trị quan trọng ở Việt Nam.

Năm 1862 rồi 1867 Pháp chiếm Nam Kỳ làm thuộc địa để làm bàn đạp chiếm Bắc và Trung Kỳ. Chữ quốc ngữ được giảng dạy cùng Pháp ngữ trong các trường học do Pháp thành lập ở Nam Kỳ. Các giáo dân là những người Việt Nam đầu tiên biết chữ quốc ngữ và Pháp ngữ. Pétrus Trương Vĩnh Ký, Paulus Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký là nhũng người có công trong việc viết sách bằng chữ quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam. Tờ Gia Định Báo, tờ báo đầu tiên của người Việt Nam do Pétrus Trương Vĩnh Ký thành lập năm 1865 được viết bằng quốc ngữ pha lẫn với Pháp ngữ. Gia Định Báo không phải là tờ báo hiểu theo nghĩa bây giờ. Nó được xem như một công báo (Journal Officiel) để loan tin tức và hoạt động của chánh quyền thuộc địa. Lê Phát Đạt, ông ngoại của Nam Phương hoàng hậu, là tín đồ Thiên Chúa giáo Nam Kỳ biết viết quốc ngữ và tiếng Pháp. Ông tốt nghiệp Trường Thông Ngôn (Ecole des interprètes). Trương Vĩnh Ký là một thành viên trong ban giảng huấn của trường. Nhờ giỏi tiếng Pháp, chữ quốc ngữ và giàu có, Lê Phát Đạt được danh hiệu HỌC SĨ và được ban hàm HUYỆN (Huyện honoraire) nên ông được gọi là Huyện Sĩ.

Nam Kỳ là đất thuộc địa do Pháp trực trị. Trung và Bắc Kỳ là đất bảo hộ. Vua Việt Nam trên danh nghĩa vẫn còn ảnh hưởng ở Trung, Bắc Kỳ. Hán học bị bãi bỏ ở Bắc Kỳ năm 1915 và ở Trung Kỳ năm 1918. Pháp ngữ và quốc ngữ La Tinh hóa bắt rễ trên hai vùng đất bảo hộ trước khi các kỳ thi tam trường bị bãi bỏ. Tú Xương (Trần Tế Xương) cảm thấy mình chẳng những bất toại trong các kỳ thi tam trường mà còn lỗi thời khi than:
Cái học ngày nay đã hỏng rồi
Mười người theo học chín người thôi.
Người Pháp du nhập vào Việt Nam từ tôn giáo, âm nhạc, nghệ thuật, thể thao, kiến trúc, học thuật, khoa học kỹ thuật, kể cả kỹ thuật đóng giày, nghề hớt tóc, đến các loại rau cải thức ăn mang từ Châu Âu đến. Kinh Thánh được dịch ra Việt Ngữ. Chữ Catholicisme dịch thành đạo Gia Tô. Các địa danh ở Trung Đông như Do Thái, Syria, Ai Cập, Mesopotamia (Lưỡng Hà Châu) được phiên âm kể cả tên Đức Chúa Jesus (Giê-Su); giống như chánh quyền miền Bắc trong thời kỳ đất nước qua phân phiên âm danh nhân hay địa danh trên thế giới như Washington thành Oa-Sinh-Tông, Lenin thành Lê-Nin, Stalingrad thành Xi-ta-lin-gờ-rad, Paris thành Pa-ri, Genève thành Giơ-neo-vơ, Trotsky thành Tơ-ros-ky v.v…

Khi tiếp xúc với người Pháp, tiếng Việt bắt đầu có những từ tiếng Pháp được Việt hóa và lưu dùng như: Ô-tô (automobile), cùi-dìa (cuillère), cái tách (tasse), xe hủ lô (rouleau), xe bù-ệt (brouette), rượu vang (vin), bia (bière), cải xà lách (salade), phô-mai (fromage), bơ (beurre), tốp (stop), ô-liu (olive), cà-tô-mát (tomate), cải xà lách son (cresson), cà phê (café), cao su (caoutchouc), thịt cốc-lết (cotelette), cây láp (arbre), cây dên (bielle), cái mỏ-lét (molette), bù-lon (boulon), dây lập lồng (fil a plomb), cái tông-dơ (tondeuse), phim (film), săm (chambre), cái phanh (frein), phú-lít (police), sen đầm (gendarme), lính săn đá (soldat), ông ách (adjudant), ông cai (caporal), bà đầm (dame), bánh mì ba-ghết (baguette), ba-dơ (base), sút (soude), xà bông (savon), ô-mơ-lét (omelette), hột gà ốp-la (oeufs sur plat), ba gai (bagarre), làm reo (grève), làm cỏ-vê (corvée), đậu que (haricot vert), con vẹt (vert – con két màu xanh lá cây), trái bom (bombe), trái ‘bom’ (pomme), ống bơm (pompe), trái sơ-ri (cerise), ách (ace) trong bài ‘cắt-tê’ (cartes), cơ (coeur), rô (carreau), bích (pique), ra-gu (ragôut), bíp-tết (beefsteak – tiếng Anh được người Pháp dùng), tốp (stop –tiếng Anh được người Pháp dùng bên cạnh chữ arrêt) v.v…

Có hiện hữu, có thấy vật mới đặt tên. Dân ta ăn cơm nên chỉ biết lúa gạo. Khi tiếp xúc với người Pháp mới biết lúa mì, bột mì. Và bánh làm từ bột mì được gọi là bánh mì. Sự hiểu biết về địa lý hay chủng tộc học hầu như vắng bóng nên khi gặp người Phi Châu trong hàng ngũ quân đội Pháp thì gọi họ là Tây Đen vì họ to lớn như Tây nhưng da màu đen. Uống rượu có màu đỏ hồng hay trắng-xanh nhạt được người Pháp gọi là VIN nên gọi là rượu vang. Khi uống thấy có vị chát lại gọi là rượu chát. Tìm hiểu biết rượu ấy làm từ nho nên gọi là rượu nho. Chữ mô-tô chưa xuất hiện khi người Việt Nam thấy chiếc Motobécane đầu tiên ở Việt Nam. Nghe tiếng nổ người ta gọi đó là xe ‘bình bịch’. Phi cơ được gọi đơn giản là máy bay vì nó bay trên trời như chim. Chiếc tàu chạy trên mặt nước gọi là tàu thủy, đối ngược với tàu hỏa tức chiếc xe lửa vì nó chạy bằng than cháy đỏ và phun khói đen nghịt một góc trời. Âm nhạc mà người Pháp du nhập vào nước ta khác hẳn với âm nhạc sẵn có trong nước. Nhạc cụ, trống kèn, chập chỏa khác với đàn gáo, đàn bầu, đàn kìm, đàn tranh, ống tiêu, trống cơm... nên có một thời âm nhạc mới nầy được gọi là ‘âm nhạc cải cách’, ’tân nhạc’. Nhạc cụ bắt đầu có tên Việt Nam hay tên Việt hóa như đàn băng-giô (banjo), măng-đô-lin (mandoline), đàn vi-ô-lông (violon) rồi vĩ cầm, đàn ghi-ta (guitare), Tây Ban Cầm (guitare espagnole), Hạ Uy Cầm (guitare hawaiienne), kèn hạt-mô-ni-ca (harmonica – khẩu cầm), đàn ac-cot-đê-ông (accordeon), pi-a-no (piano – dương cầm), v.v…

Trong tiếng Việt đã có tiếng Anh ngay dưới thời Pháp thuộc, nghĩa là trước khi tiếp xúc với người Hoa Kỳ. Từ ngữ tiếng Anh Việt hóa phần lớn là những từ ngữ liên quan đến các bộ̣ môn thể thao như banh (ball), cọt-ne (corner), bê-nanh-ty (penalty), giữ gôn (goal keeper), tơ-nít (tennis), đánh bốc (boxing – quyền Anh), nốc ao(knoct out), nóc đao (knock down), banh bong (pingpong - bóng bàn), bóng rổ (basket ball), vô-lây (voley ball – bóng chuyền) v.v... Trẻ em chơi đánh, tù, tì (one, two, three). Trong thức ăn có bánh xăng-quít (sandwich), bíp-tết (beefsteak), rượu quít-ky (whisky), v.v…

Tiếng Việt văn vẻ và đầy chữ Hán, Nga ngữ và các ngoại ngữ khác từ khi Lin, tức Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh sau nầy thụ huấn ở Liên Sô về Hồng Kông lập ra Đảng Cộng S̉ản Việt Nam (1930). Những từ bình dân, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa, cộng sản, bôn-sê-vít (Bolsheviks), men-sê-vít (mensheviks), lô-gic (logique), phạm trù (norme), abc (anti-bolchéviste), tư sản, trí thức tiểu tư sản (Petit bourgeois intellectuel), trí, phú, địa, hào, dân chủ, bình đẳng, bình quyền, vô sản, tư hữu, nhân sinh quan, thế giới quan, khách quan lịch sử, chủ quan lịch sử, duy vật biện chứng, giai cấp đấu tranh, giải phóng, mặt trận, liên đoàn, liên minh, đồng minh, thực dân, phong kiến, phát xít... được lập đi lập lại gần như hàng ngày sau cách mạng tháng 08 ở nông thôn. Từ ‘thanh niên’ thay thế cho trai tráng, ‘phụ nữ’, ‘lão ông’, ‘lão bà’ thay vì đàn bà, đàn ông, bà già; ‘nhi đồng’ thay vì trẻ em, con nít. Khi hỏi tuổi người ta nói: “Anh được bao nhiêu niên kỷ?”. Trong vùng Việt Minh kiểm soát trong chiến tranh Việt-Pháp có nhiều thay đổi đột ngột trong chánh tả Việt ngữ.Trong tiếng Việt không có chữ F, J, W, Z. Bây giờ chữ F được dùng để thay thế chữ PH. PHÁP được viết thành FÁP. Súng SKZ thoạt mới nghe tưởng là phát minh vũ khí của Liên Sô, Đức Quốc hay Tiệp Khắc, nào ngờ đó là chữ tắt của Súng Không Zật (Giật) do Phạm Quang Chánh tức Trần Đại Nghĩa làm ra bằng sắt thép đường rầy xe lửa. Chữ Y hầu như bị thủ tiêu. Mỹ viết thành Mĩ chẳng hạn. Gạch nối bị bãi bỏ trong chánh tả miền Bắc sau năm 1954 ngoại trừ bí danh Trường-Chinh, tổng bí thư đảng Lao Động Việt Nam.

Trong thời kỳ đất nước qua phân miền Bắc và miền Nam có hai chế độ chánh trị khác nhau. Miền Bắc chịu ảnh hưởng chánh trị của Liên Sô và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, hai nước cộng sản đàn anh tranh giành ảnh hưởng và quyền lãnh đạo trong khối Cộng Sản. Ở miền Nam ảnh hưởng chánh trị của Pháp giảm sút trước ảnh hưởng chánh trị Hoa Kỳ. Tiếng Pháp vẫn còn dạy ở bậc trung học, nhưng đến thập niên 1960 tiếng Anh nắm ưu thế hết miền Nam.

Tùy theo chế độ Cộng Sản, Liên Sô và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc có những mâu thuẫn sâu sắc về mọi vấn đề xuất hiện. Liên Sô đại diện chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa của các quốc gia kỹ nghệ theo chủ nghĩa Marx-Lenin. Mao Zedong sửa đổi chủ nghĩa Marx-Lenin thành chủ nghĩa Mao (Maoism), tức chủ nghĩa Cộng Sản nông nghiệp kết hợp với chủ nghĩa bành trướng dân tộc Hán (Pan-Hanism) (xin lỗi chữ nầy do tôi đặt ra). Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa có ảnh hưởng to lớn ở miền Bắc sau năm 1954 vì nước nầy viện trợ cho Việt Nam võ khí, thuốc men, lương thực, cố vấn chánh trị và quân sự trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.Tên Hồ Chí Minh là người do Liên Sô đào luyện. Ông lo ngại Trường-Chinh dựa vào thế lực của Beijing (Bắc Kinh) lấn át quyền hành của ông. Miền Bắc tìm cách nôm na hóa Việt ngữ và thay đổi Âm Lịch (1967) khác với Âm Lịch Trung Hoa như một hành động độc lập với Trung Hoa Cộng Sản để lấy lòng Liên Sô và tránh tiếng lệ thuộc Bắc quốc đối với dân chúng miền Bắc. Từ đó ta có hố xí thay cho cầu tiêu, xưởng đẻ thay cho nhà bảo sanh, máy bay thay cho phi cơ, máy bay lên thẳng thay cho trực thăng, lính thủy đánh bộ thay cho thủy quân lục chiến (marine), giặc lái chỉ phi công của phe địch (Mỹ và VNCH) v.v… 
Nhưng họ lại mâu thuẫn và mị dân với những từ hộ khẩu, xe cải tiến (xe bù-ệt – brouette), tổng tẩy quan (người quét dọn), văn công, bần cố nông, công nghiệp, nghệ nhân, vô sản chuyên chính, tập thể hóa nông nghiệp... và muôn ngàn từ ngữ chát chúa khó hiểu khác còn mang ấn dấu Hán- Việt!

Nếu ở miền Bắc người ta ‘nôm na hóa’ Việt ngữ thì ở miền Nam từ Hán-Việt được dùng tối đa. Trường Đại Học Sư Phạm ở miền Nam có ban Việt-Hán. Tổng thống Ngô Đình Diệm chịu ảnh hưởng Thiên Chúa Giáo, Khổng Giáo và văn hóa Tây Phương. Ông là người ngoan đạo từng sống ở Hoa Kỳ nên các bài diễn văn của ông thường kết thúc bằng câu‘Xin Ơn Trên Phù Hộ Cho Chúng Ta’ giống như câu May God Bless Us của người Hoa Kỳ. Từ ngữ tiếng Anh của người Hoa Kỳ Việt hóa hầu như vắng bóng ngoại trừ những từ ngữ thể thao tiếng Anh Việt hóa đã có từ thời Pháp thuộc. Nhưng từ khi tiếp xúc với người Hoa Kỳ từ năm 1954 đến 1975 những từ sau đây thường được dùng đến như mục tiêu phải đạt và bổn phận phải làm: cộng đồng, phát triển cộng đồng, khuếch trương kinh tế, tự do, dân chủ, cộng hòa (dân quốc), tổng thống chế, chữ nghĩa nhân vị (Personalism), Cần Lao, Liên Đới, đả thực (thực dân), bài phong (phong kiến), diệt Cộng (Cộng Sản) v.v…Cải tiến dân sinh, Đồng tiến xã hội là những khẩu hiệu được tổng thống Ngô Đình Diệm thường nhắc đến.

*

Về Việt ngữ: Việt tự tức chữ quốc ngữ hiện hành và ngoại ngữ có ba dư luận gần như đối kháng như sau:

1. Có một dư luận về chữ quốc ngữ như sau: chữ quốc ngữ là sản phẩm của giáo sĩ người Pháp. Người Pháp xâm chiếm nước ta và quảng bá nó. Khuynh hướng nầy xem chữ quốc ngữ là sản phẩm của Pháp. Có người cực đoan hơn muốn bỏ chữ quốc ngữ và phục hồi chữ Nôm vì cho đó là một sản phẩm thuần túy Việt Nam.

2. Một số người chủ trương bỏ chữ Hán trong tiếng Việt vì dùng chữ Hán chứng tỏ ta lệ thuộc Tàu. Dùng càng nhiều chữ Hán càng làm cho người nghe càng khó hiểu.

3. Việt ngữ dồi dào phong phú nên không cần học ngoại ngữ.

*

Trước khi người Pháp đô hộ Việt Nam, nước ta không có chữ viết. Trong Lục Bộ không có bộ Giáo Dục. Năm 1932 vua Bảo Đại du học ở Pháp về mới có Bộ Học. Trước kia Bộ Lễ trông coi về tôn giáo, nghi lễ, ngoại giao lẫn giáo dục. Thực tế trong nước không có trường công lập. Quốc Tử Giám được mở ở kinh đô chỉ để giáo dục con quan mà thôi. Trường học đều là tư thục do các ông đồ hay quan lại hưu trí đặc trách việc giảng dạy. Thầy dạy chữ Hán thường là những người có tú tài Hán học nên không được triều đình bổ nhiệm ra làm quan hay những quan lại hưu trí hay rũ áo từ quan.

Người Pháp xâm lăng và bắt dân ta học chữ quốc ngữ và tiếng Pháp thì có khác gì người Trung Hoa đô hộ nước ta và dạy chữ Hán cho dân tộc ta? Chữ Hán là chữ viết người xâm lăng từ phương Bắc nhưng chữ quốc ngữ không phải là chữ viết của người Pháp mà là chữ viết La Tinh hóa dựa vào cách phát âm của người Việt Nam. Đó là một phát minh của giáo sĩ và nhà ngôn ngữ học Alexandre de Rhodes. Về phương diện chánh trị và lịch sử, nước Pháp có đụng chạm với nước ta nhưng chữ quốc ngữ thì vô tội, lại mang nhiều tiện lợi cho nước ta vì trên thế giới ngày nay phần lớn các nước đều dùng mẫu tự La Tinh. Thổ Nhĩ Kỳ, Indonesia là những quốc gia Hồi Giáo đã mạnh dạn cải cách chữ viết của họ theo mẫu tự La Tinh, sao ta lại nghĩ đến việc dùng chữ Nôm? Trong thực tế chữ Nôm không có vai trò lớn nào trong lịch sử giáo dục và thi cử ở Việt Nam ngoại trừ thời gian ngắn ngủi thời Tây Sơn khi Nguyễn Huệ lên ngôi năm 1789. Vua Quang Trung mất năm 1792. Nhà Tây Sơn hoàn toàn sụp đổ năm 1801. Thời gian ngắn ngủi nầy là thời nội chiến giữa dòng Nguyễn Phúc và nhà Tây Sơn sắp đến hồi kết cuộc. Vì vậy chữ Nôm không có cơ hội thuận lợi để phát triển dù chỉ trên lãnh thổ cai trị của nhà Tây Sơn. Với chữ quốc ngữ hiện hành việc quảng bá giáo dục quần chúng dễ dàng hơn với chữ Nôm. Một người không biết chữ chỉ cần học 6 tháng là biết đọc chữ quốc ngữ. Phải mất bao lâu mới đọc được chữ Nôm? Ai dạy? Nói nôm na thì dễ. Nhưng học chữ Nôm không dễ vì phải có căn bản chữ Hán mới học được chữ Nôm. Chữ quốc ngữ theo mẫu tự La Tinh giúp cho Việt tự tách rời khỏi văn hóa Trung Hoa ít ra về hình thức. Vào thế kỷ XIX khi Pháp chiếm Nam Kỳ, nhiều nhà giàu có không cho con đi học chữ quốc ngữ và tiếng Pháp. Họ phải mướn người đi học để khỏi bị chánh quyền thuộc địa nghi ngờ có phản ứng chống Pháp.

Việc không dùng chữ Hán trong tiếng Việt sẽ làm cho tiếng Việt cằn cỗi hơn là phong phú. Có nhiều lãnh vực độc lập với chánh trị và tinh thần quốc gia. Ngôn ngữ, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật... là những lãnh vực độc lập đó. Trong những trang vừa qua tôi trình bày rất nhiều từ ngữ mà tiếng Việt vay mượn từ các nước khác. Tiếng Anh của người Hoa Kỳ phong phú hơn tiếng Anh của người Anh vì có sự vay mượn của nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới và vì khoa học kỹ thuật Hoa Kỳ phát triển nhanh chóng. Hằng năm có hàng ngàn sản phẩm mới ra đời và có tên gọi mới. Tự điển của Hoa Kỳ có thêm từ 3.000 đến 5.000 từ ngữ mới mỗi năm. Sự vay mượn chỉ làm giàu cho ngôn ngữ chớ có hại gì đâu. Vay mượn từ ngữ không phải trả vốn hay tiền lời chi cả. Tiếng Anh, Pháp và các ngôn ngữ Âu Châu đều phảng phất âm hưởng của La Tinh và Hy Lạp. Người Hoa Kỳ không có mặc cảm gì khi dùng tiếng nói của người Anh từng cai trị mình. Người Pháp hay Âu Châu không mặc cảm gì khi dùng từ ngữ gốc La Tinh vì xưa kia họ từng bị đặt dưới sự thống trị của đế quốc La Mã. Người Ấn Độ thấy thoải mái khi nói tiếng Anh, quốc gia từng đô hộ họ. Trong chừng mực nào đó tiếng Anh còn dễ dàng hơn các thổ ngữ trong nước. Ấn Độ há không có văn minh lâu đời? Người Canada không mặc cảm gì khi nói tiếng Anh và tiếng Pháp cũng như người Thụy Sĩ nói tiếng Đức, Pháp và Ý.

Trở về việc dùng chữ Hán trong tiếng Việt, ta thấy với chữ Hán trong Việt ngữ Việt Nam vẫn chưa có một quyển tự điển Việt ngữ hoàn chỉnh vì nước ta chưa có Hàn Lâm Viện. Bỏ chữ Hán, cuốn tự điển không hoàn chỉnh ấy mất đi 45% chiều dày của nó.

Người mù chữ ở Việt Nam vào giữa thế kỷ XX nói mã tà, phú-lít (police) thì họ biết nhưng nói cảnh sát thì họ không biết vì họ biết tên gọi mã tà hay phú-lít trước khi chữ cảnh sát ra đời. Một người không có trình độ văn hóa cao ở Hoa Kỳ biết money order chứ không biết chữ dịch ngân lịnh của nó. Ông ta biết food stamps chớ không biết tem phiếu lương thực. Đó là thói quen ban đầu đã dùng như vậy. Nếu không gọi voter là cử tri mà gọi là người đi bỏ phiếu hay người đi bầu thì electoral college (cử tri đoàn) phải gọi là đoàn người đi bỏ phiếu? Quốc gia độc lập sẽ nói thành nước nhà đứng một mình? Giữa những chữ ‘quốc gia độc lập’ và ‘nước nhà đứng một mình’ cái nào nghe êm tai, sát nghĩa, dễ hiểu và dễ nhớ hơn? Những từ kép như chánh trị, tự do, dân chủ, cộng hòa, quốc hội, hiến pháp, ngân hàng, thị trường, kinh tế, thương mại... sẽ nói như thế nào cho người ta hiểu dễ dàng nếu bỏ Hán-Việt trong tiếng Việt? Đại nhân trở thành người lớn? Tiểu nhân là người nhỏ? Phản ứng của người nghe sẽ hiểu người lớn là người trên tuổi 18 tuổi (adult) hay cao lớn gần 2m. Hiểu như vậy có đúng nghĩa của chữ đại nhân không? Còn người nhỏ là người cao không quá 1.50 m? Nghĩa thật sự của chữ tiểu nhân có phải như vậy không?

Ngôn ngữ trong sáng hay không là do người truyền đạt nắm vững vấn đề mà mình muốn truyền đạt hay không và người nghe có đủ trình độ để nghe và hiểu vấn đề hay không. Mỗi ngành nghề, mỗi bộ môn có từ ngữ riêng của nó. Không thể dùng từ nôm na mà chuyện phức tạp trở nên giản dị, chuyện khó hiểu trở nên dễ hiểu. Khẩu hiệu Mười Sáu Chữ Vàng (16) và Bốn Tốt (4) không có chữ Hán, dễ hiểu nhưng hàm chứa vô số âm mưu thâm hiểm và tàn độc khó hiểu. Ngôn ngữ có qui luật, vẻ đẹp và giá trị riêng của nó. Nó được xem là tiêu chuẩn để đánh giá người nói lẫn người nghe. Quá khó khăn phức tạp như La Tinh hay Sanskrit (tiếng Phạn) thì dễ bị đào thải để trở thành tử ngữ (langues mortes). Giản dị hay phức tạp tùy vào định chế chánh trị, tình trạng kinh tế - xã hội, sự phát triển văn hóa, giáo dục và khả năng lý luận của dân chúng trong nước.

Khi Hoa Kỳ vừa lập quốc họ tìm cách giản dị hóa cách nói tiếng Anh. Tiếng Anh của người Anh phức tạp vì Anh là một nước quân chủ. Ngôn từ có giai cấp tính của nó. Ở Việt Nam dưới chế độ quân chủ cũng không ngoại lệ. Một số từ ngữ chỉ dành cho vua chúa và hoàng tộc như: lăng (mồ mả vua), long nhan (mặt vua), long thể (thân thể vua), long bào (áo của vua), ngọc tỷ (ấn của vua), thánh ý (ý của vua), núi ngự (núi nơi vua ngự),chuối ngự (chuối của vua ăn), ngự trù (đầu bếp của vua), ngự y (thầy thuốc của vua), vua se mình (vua bệnh), vua băng (vua chết), hoàng hậu lâm bồn (hoàng hậu hạ sinh con), hoàng hậu (vợ của vua), hoàng tử (con vua), công chúa (con gái vua) v.v… Tiếng Anh của người Hoa Kỳ giản dị vì đó là nước Cộng Hòa, dân chủ. Nhưng khi Hoa Kỳ trở thành một quốc gia có nền kinh tế phồn thịnh, đời sống dân chúng cao, giáo dục mở mang. Trình độ học vấn của dân chúng lên cao. Sự giản dị trong ngôn ngữ giảm đi nhưng không có nghĩa là thiếu sự sáng sủa đến nỗi không ai hiểu gì cả. Những người trưởng giả giàu có bắt đầu muốn có cuộc sống vương giả và dùng từ ngữ cầu kỳ như giới quý tộc Châu Âu xưa kia nhưng chưa đến nỗi gọi cái ghế là vật bằng gỗ để ngồi. Sự cầu kỳ và phức tạp đôi khi xuất phát từ ý muốn của loài người để có sự phân biệt và ngăn cách giữa người và người. Nếu con đường nào cũng ngay và thẳng thì phong cảnh trở nên đơn điệu. Lắm lúc người ta phải làm cho nó cong quẹo, uốn khúc, thậm chí ngoằn ngoèo nguy hiểm để chấm dứt vẻ đơn điệu buồn tẻ và làm cho người lái xe phải chú ý và cẩn thận hơn. Sự phức tạp và khó hiểu của ngôn từ đôi khi cũng tương tự như thế.

Tô một bức tường 50m2 chỉ trả có 2 ngày công thợ. Nhưng chạm trổ một cây cột 0,5 m2 lại phải trả 20 ngày tiền công thợ vì vẻ đẹp nghệ thuật của cái nhà nằm trên cây cột chạm 0,5 m2 chớ không phải trên bức tường tô 50m2.

Sự phức tạp văn phạm của ngôn ngữ Âu Châu lại giúp cho ngôn ngữ của họ rõ ràng, sáng sủa. Nó xuất phát từ óc phân tích, tổng hợp và lý luận khoa học. Chỉ cần nghe cách chia động từ người ta biết trình độ người nói, chuyện xảy ra lúc nào (quá khứ, hiện tại, tương lai, tương lai giả định v.v...). Chỉ cần thấy không có S là thì biết không nhiều, thấy HE, SHE, IT, ELLE, IL thì biết đàn ông, đàn bà giống đực, giống cái, người hay vật. Sự sáng sủa đó xuất phát từ tinh thần trọng quy tắc, luật lệ và khoa học của người tò mò muốn có sự giải đáp của 5WH + H: What (cái gì ?), Who (ai?), Where (ở đâu), When (lúc nào?), Why (tại sao?) + How (cách nào/ như thế nào?). Trả lời được 5 WH + H thì khám phá ra nhiều điều mới lạ trong đời sống và trong vũ trụ. Muốn như vậy phải có dân chủ. Có tự do mới có sáng kiến và phát minh vì người ta dám hỏi và giải đáp những câu hỏi gai góc.

*

Dưới thời Pháp thuộc những người giỏi tiếng Pháp như Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Diệp Văn Cương, Nguyễn Hữu Bài, Ngô Ðình Khả, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh… đều có danh tiếng và địa vị trong xã hội thuộc địa. Sau cách mạng tháng 8 nhiều người khốn đốn thậm chí có thể vong mạng vì nói tiếng Pháp. Sự khinh miệt trí thức trở nên thịnh hành trong xã hội Việt Nam từ năm 1930 và nở rộ không riêng dưới chế độ Cộng Sản ở miền Bắc mà cả dưới chế độ quân đội ở miền Nam. Nào là trí thức ‘bơ sữa’. Nào là trí thức trùm chăn. Nào là trí thức không bằng cục phân. Nào là trí thức sa-lông, xôi thịt. Nào là trí thức trói gà không chặt. Hai chữ ‘khoa bảng’ được dùng với nghĩa xấu hơn là tốt. Bùi Quang Chiêu bị tàn sát cả nhà. Hồ Văn Ngà chết mất xác. Nguyễn Văn Sâm bị ám sát giữa thị thành. Trần Đức Thảo điên loạn. Nguyễn Mạnh Tường suýt chết đói. Phan Khôi chìm trong quên lãng. Phạm Ngọc Thạch chết trong rừng sâu. Trần Anh, Lê Minh Trí, Trần Văn Văn, Nguyễn Văn Bông bị ám sát chết. Trong tuồng hát lẫn ngoài đời người ta đề cao sự NGHÈO, DỐT nhưng không che dấu được sự khinh khi nghề dạy học nghèo nàn với những câu trở thành khẩu hiệu hay ca dao như: Nghèo mà thanh bạch, Học trò đi mò cá sặt, Thầy giáo ở nhà... Dưa leo chấm với cá kèo, Học trò nghèo đi học nọt-man (normale: sư phạm) v.v...

Trí thức bị nghèo đói, bị tù đày hay bị ám sát, thủ tiêu. Người thì mượn cửa Thiền để xa lánh thế gian. Người thì phải rời khỏi quê hương để được hưởng chút không khí tự do. Những hình ảnh trên làm cho người bàng quan thấy sự dốt nát là áo giáp của sự An Toàn và Hạnh Phúc. Nếu dựa vào thành kiến gắn liền trí thức, khoa bảng với ngoại bang để bài xích việc học ngoại ngữ thì đó là một thiệt thòi vô cùng to tát cho đất nước và dân tộc. Đó là một sự qui nạp hàm hồ, tai họa và vô tội vạ. Sự tự cô lập không giúp ích gì cho sự tiến bộ của đất nước và dân tộc. Chánh sách bế quan tỏa cảng vào thế kỷ XIX của triều đình Huế phỏng theo chánh sách bế quan tỏa cảng và bài Bạch Quỉ của Trung Hoa không giúp cho Việt Nam bảo vệ độc lập trước sự xâm lăng của Pháp. Nước Trung Hoa to lớn cũng không tránh được sự xâu xé của liệt cường Tây Phương. Bế quan tỏa cảng và tự cô lập không giúp cho vua quan ta thấy được con đường dẫn đất nước và dân tộc đến phồn vinh, tự do và hạnh phúc. Các nước Âu Châu rất quan tâm đến việc giảng dạy ngoại ngữ. Nhật và Nam Hàn (Đại Hàn) chủ trương mời thầy giáo người Anh hay Hoa Kỳ dạy tiếng Anh cho học sinh ngay từ bậc tiểu học để việc nói và nghe tiếng Anh được rốt ráo hoàn chỉnh hơn. Các quốc gia chú trọng đến ngoại ngữ ý thức rằng ngoại ngữ giúp họ cập nhật những tiến bộ của nhân loại trên mọi lãnh vực.

Nếu học ngoại ngữ nên học ngoại ngữ nào? Vì sao?

Trên thế giới có các ngôn ngữ quan trọng sau đây:

1. Tiếng Quan Thoại: 935 triệu người nói tức 14,1% dân số địa cầu. Các nước nói Quan Thoại gồm có: Trung Hoa lục địa, Đài Loan (Taiwan), Singapore, Mã Lai (nơi có 30% cư dân gốc Trung Hoa).

2. Tiếng Tây Ban Nha: 387 triệu người nói (5,85% dân số địa cầu). Các nước Trung Mỹ (ngoại trừ Brazil), hải đảo Caribbean, Tây Ban Nha.

3. Tiếng Anh: 365 triệu người nói (5,52% nhân loại). Các nước nói tiếng Anh là Hoa Kỳ, Anh, Ái Nhĩ Lan (Ái Nhĩ Lan có ngôn ngữ của họ nhưng tỷ lệ người Ái Nhĩ Lan nói tiếng Anh rất cao), Nam Phi, Úc Đai Lợi, Tân Tây Lan.

4. Tiếng Hindi: 295 triệu người Ấn Độ nói (4,46% nhân loại). Dân số Ấn Độ hiện nay là 1,1 tỷ người.

5. Tiếng Ả Rập: 280 triệu người nói (4,23 % nhân loại) gồm các quốc gia Trung Đông, ngoại trừ Do Thái, Bắc Phi.

6. Tiếng Bồ Đào Nha: 204 triệu người nói (3,06% nhân loại) gồm các quốc gia Brazil, Bồ Đào Nha, Angola, Mozambique.

7. Tiếng Bengali: 202 triệu người nói (3,05 %) gồm Bangladesh và cư dân phi Hồi Giáo quanh vùng.

8. Tiếng Nga: 160 triệu người nói (2,42 % nhân loại) gồm các quốc gia Nga, Trung Á, Mông Cổ và người Do Thái hồi hương.

9. Tiếng Nhật: 127 triệu người nói (1,92 % nhân loại).

Số người nói tiếng Anh đứng hàng thứ ba sau số người nói tiếng Quan Thoại và tiếng Tây Ban Nha nhưng tiếng Anh là ngôn ngữ phổ biến khắp thế giới từ thế kỷ XIX đến nay. Số người Ấn Độ nói tiếng Anh đông hơn cả người Anh chính gốc! Ở những vùng xa xôi như các cựu Cộng Hòa Sô Viết ở Trung Á, Tây Tạng, Tân Cương, Mông Cổ... cũng có người biết nói tiếng Anh.

Nhằm mục đích đào tạo mầm non để phát triển quốc gia, việc học tiếng Anh là điều cần thiết. Vì Hoa Kỳ, Anh là những nước có nền khoa học kỹ thuật tân tiến, kinh tế phồn thịnh với truyền thống kỹ nghệ và thương mại lâu đời. Hoa Kỳ và Anh là hai quốc gia được nhiều giải thưởng Nobel về khoa học, kinh tế và các lãnh vực khác căn cứ vào các số thống kê sau đây:
Quốc gia
Số giải thưởng Nobel
Hoa Kỳ
Anh
Đức
Pháp
Thụy Điển
Nga
Thụy Sĩ
Canada
Nhật
Ý
Hòa Lan
Áo
338
118
102
 65
 30
 27
 26
 21
 20
 20
 19
 19

Số giải thưởng Nobel mà Nga được nhỏ hơn Thụy Điển (27-30). Nước Nga rộng lớn và đông dân so với Thụy Sĩ và Hòa Lan. Số giả̉i thưởng Nobel của Nga chỉ hơn Thụy Sĩ 1 giải (27-26) và hơn Hòa Lan 8 giải (27-19).

Nếu so với tiếng Quan Thoại, Tây Ban Nha, Nga, Pháp, Đức, Ý, Nhật thì tiếng Anh tương đối dễ học hơn các ngôn ngữ kia. Đó là tất cả những lý do tại sao phải chú trọng đến tiếng Anh.

Tôi không phải là nhà ngôn ngữ học. Bài viết này chỉ là một bài góp ý hơn là bài khảo cứu ngôn ngữ. Tôi thiết tha mời bạn đọc cùng góp ý, sửa sai và bổ túc. Đó là cách thực tập tinh thần hợp tác và xây dựng lẫn nhau. Sức mạnh của một dân tộc không nằm trong khả năng xuất chúng của từng cá nhân nào mà nằm trong sự hợp tác của tập thể dân tộc. Chúng ta không thể kể tên một người Nhật xuất chúng nào ăn nói hùng hồn cả. Nhưng chúng ta có thể kể hàng loạt thành quả rực rỡ mà toàn dân và toàn nước Nhật tạo ra. Phải mạnh dạn ghi nhận rằng quê hương gốc chúng ta yếu vì không có sức mạnh tập thể mặc dù có rất nhiều cá nhân có điểm cao ở các học đường hay đậu cấp bằng cao ở các đại học trên thế giới. 
Phạm Đình Lân, F.A.B.I.
Xin lưu ý với các bạn hữu Blogger, Website nào muốn trích đăng bài sưu tầm hay bài viết, thơ, nhạc của groupe chúng tôi về Blog, WordPress, Google Plus,​ của các anh chị, xin vui lòng đợi
 1 tuần ​sau khi bài trong Blog của chúng tôi đã đưa ra public.
Riêng phần tiếp chuyển, thì xin cám ơn quý anh chị đã giới thiệu dùm đến người thân quen.​
​Caroline Thanh Hương
TIẾNG VIỆT - Gs PHẠM ĐÌNH LÂN, F.A.B.I.
                                   Cung Oán Ngâm Khúc
  photo cungoanngam.jpg
         Như tất cả các dân tộc khác trên thế giới, người Việt Nam có tiếng nói từ lúc bình minh lịch sử nhưng tiền nhân chúng ta không có chữ viết. Đó là tình trạng chung của các dân tộc sống ở miền nam sông Dương Tử đến thung lũng sông Hồng, sông Mã và sông Cả cách đây 3000 năm. Ở Trung Hoa có lối 500 thổ ngữ khác nhau nhưng tất cả các tộc đều cùng chung một chữ viết.
Người Việt Nam học Hán tự từ các nhà cai trị Trung Hoa dưới thời Bắc Thuộc (111 trước Tây Lịch đến 938 sau Tây Lịch). Vào thế kỷ 13 Nguyễn Thuyên, thượng thơ bộ hình dưới triều vua Trần Nhân Tôn (1225–1258), là người đầu tiên làm thơ bằng chữ Nôm. Ông được vua nhà Trần cho đổi sang họ Hàn sau khi làm một bài văn tế khiến cho con sấu hung tợn trên sông Phú Lương bỏ đi. Sự kiện nầy giống như Hàn Dũ (768–823) đời Đường đặt văn tế cá sấu khi làm thứ sử ở Triều Châu. Tuy vậy chữ Nôm vẫn chưa phát triển. Các cuộc thi tam trường qua các triều đại ở Việt Nam đều bằng chữ Hán.
Điều đáng chú ý là chữ Nôm không giản dị như nhiều người lầm tưởng. Cách diễn đạt nôm na thì đơn giản. Thay vì nói “nhất nhân hành” ta nói “một người đi”. Nhưng cách viết chữ Nôm rất rắc rối vì nó đòi hỏi người học phải biết chữ Hán. Vào thế kỷ thứ 8 dân chúng tôn Phùng Hưng là Bố Cái Đại Vương. Vào thế kỷ 10 Đinh Tiên Hoàng đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Danh hiệu Bố Cái Đại Vương hay quốc hiệu Đại Cồ Việt đánh dấu sự kết hợp của chữ Nôm và chữ Hán ngay từ thế kỷ 8 và 10.
Hoàng đế Quang Trung là người mạnh dạn trong việc quảng bá chữ Nôm. Vào thế kỷ 19 những tác phẩm nổi tiếng như Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du và Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu đều được viết bằng chữ Nôm. Trước đó Đặng Trần Côn viết Chinh Phụ Ngâm Khúc bằng chữ Hán. Bà Đoàn Thị Điểm đã diễn Nôm tác phẩm nầy một cách đặc sắc đến nỗi nhiều người ngờ rằng bà là tác giả của áng văn tuyệt tác nầy.
Từ năm 1862 chữ quốc ngữ được giảng dạy ở ba tỉnh miền đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định và Định Tường). Giáo sĩ Pháp Alexandre de Rhodes (1591–1660) phát minh ra chữ quốc ngữ vào thế kỷ 17 để tiện việc giảng giáo lý ở Đàng Ngoài. Đến năm 1867 Pháp chiếm đóng toàn thể Nam Kỳ Lục Tỉnh nên thi hương đương nhiên bị bãi bỏ ở Nam Kỳ. Kỳ thi hương năm 1915 là kỳ thi cuối cùng ở Bắc Kỳ. Ở Trung Kỳ thi hương, thi hội và thi đình chấm dứt vào năm 1918. Từ đó về sau toàn thể ba miền ở Việt Nam đều học chữ quốc ngữ hiện đang lưu hành trong nước. Như vậy Việt tự hiện hành ra đời do công lao của một giáo sĩ người Pháp gốc ở Avignon. Nó mới thịnh hành trên toàn thể nước ta vào đầu thế kỷ 20 mà thôi.
ĐẶC ĐIỂM CỦA TIẾNG VIỆT
1.- Tiếng Việt là một thứ tiếng độc âm. Các tiếp đầu ngữ (prefix) và tiếp vĩ ngữ (suffix) đều độc âm không giống như tiếng Pháp hay tiếng Anh. Thí dụ: hậu chiến (post-bellum hay post-war); bán quân sự (para-military); Việt Nam hóa (Vietnamization); Mỹ hóa (Americanization) v.v…
2.- Tiếng Việt tương đối thuần nhất. Dù cách diễn tả có phần khác nhau nhưng dân chúng ở ba miền vẫn có thể hiểu nhau. Ở miền Bắc người ta nói: “Nhặt hộ tôi quả bóng.”  Ở miền Nam, cũng ý nghĩa của câu nầy, người ta nói: “Lượm giùm tôi trái banh.”  Một vài khác biệt về cách dùng từ ngữ được tìm thấy ở ba miền. Khi nói đến xương mỏ ác, người miền Nam chỉ trên đầu, người miền Bắc chỉ trên ngực. Người miền Nam gọi đó là xương ức hay chấn thủy (stenum). Đối với người miền Bắc và miền Trung sầm uất là nơi ồn ào náo nhiệt. Ở miền Nam sầm uất là nơi vắng vẻ, âm u, có nhiều bụi bậm hay đầy dẫy bình vôi. Người miền Bắc gọi trái mãng cầu là trái na, cái muỗng là cái thìa, trái mận là trái roi, con heo là con lợn v.v… Ở miền Trung “không có răng” có nghĩa là “không có sao”.
3.- Tiếng Việt dồi dào âm thanh vì có nhiều dấu. Đọc sai dấu hay viết nhầm dấu có thể gây ra những hiểu lầm đáng tiếc. Chính vì có nhiều dấu mà việc học Việt ngữ trở nên khó khăn đối với người ngoại quốc vì họ khó phát âm đúng được.
Hình dung từ trong tiếng Việt rất phong phú và gợi hình. Con mèo đen được gọi là mèo mun. Con chó đen thì gọi là chó mực. Con gà đen thì gọi là con gà ô hay con gà quạ. Con ngựa đen thì gọi là ngựa ô. Con ngựa trắng thì gọi là con ngựa kim hay ngựa bạch (Bạch mã). Con chuột trắng thì gọi là chuột bạch.
Về giống ta có: đực, cái, trống và mái. Hình dung từ đực và cái dành cho các loài có vú và thú vật to lớn như chó đực, chó cái, bò đực, bò cái. Hình dung từ trống và mái dành cho loài thú nhỏ và loài cầm vũ như cá trống, cá mái, gà trống, gà mái, chim trống, chim mái v.v…
Hình dung từ chỉ về cảm giác thì có đau, nhức, lói, ê, thốn, tức, rim, tê, buốt.
Hình dung từ dốt trong tiếng Việt vừa khôi hài vừa gợi hình. Dốt là trạng thái không sống cũng không chín. Me dốt không phải là me chín cũng không phải là me sống. Bánh tráng dốt không hoàn toàn ướt nhưng chưa khô. Người dốt không phải là người mù chữ nhưng sự hiểu biết còn nhiều thiếu sót.
Động từ porter của Pháp tương ứng với bồng, bế, gánh, gồng, cõng, khiêng, khuân, vác, đội, mặc của Việt Nam. Chữ ĂN được xử dụng rộng rãi như ăn cơm, ăn tiệc, ăn Tết, ăn chịu, ăn chực, ăn mặc, ăn mày, ăn nằm, ăn nói, ăn mộng, ăn nhịp, ăn khách, ăn khớp, ăn ở, ăn thua, ăn trớt, ăn gian, ăn lận v.v…
 4.- Tiếng Việt phong phú nhưng không có qui luật văn phạm. Động từ ‘To Be’ hay ‘Etre’ mà ta dịch ‘Thì’ hay ‘Là’ thường vắng mặt trong các câu nói hay câu văn. Trong tiếng Việt không có chia động từ và không có thì trong động từ. Trần Trọng Kim soạn quyển Văn Phạm Việt Nam sau khi ông tiếp xúc với văn hóa Pháp. Article thì dịch ra là quán từconjonction: liên từ; verbe: động từ; préposition: giới từ; complément: túc từ; adjectif: tĩnh từLe, la, un, une, les, des thì tương đương với bên Việt ngữ cái, con, các, những. Quán từ cái dùng chỉ vật bất động như cái chén, cái khăn. Quán từ con dùng để chỉ thú vật hay vật có thể di động như con gà, con cọp, con đường, con sông. Nhưng người Việt Nam không nói cái cam, cái bưởi, cái núi mà trái cam, trái bưởi, trái núi. Đây là một phần của sự phức tạp của tiếng Việt. Không hẹn vẫn gặp. Đó là trường hợp không dùng quán từ trước những danh từ không đếm được (uncountable nouns) như vẫn thấy trong qui luật văn phạm Anh và Hoa Kỳ. Do đó người ta không nói cái thì giờ, cái tiền bạc, cái cảm tình mà nói: thì giờ, tiền bạc, cảm tình. Trên thực tế không biết có bao nhiêu người Việt Nam viết thơ văn tiếng Việt suông sẻ nhờ thấu triệt văn phạm Việt Nam.
Tiền nhân chúng ta có câu:
Vua có khó thì thợ mới hay.
Mẹ chồng khó thì nàng dâu mới khéo.
Chế độ quân chủ và xã hội giai cấp thời phong kiến góp phần đáng kể vào việc phong phú hóa Việt ngữ. Ngày xưa chỉ có vua mới được dùng màu vàng và mặc áo vàng trên đó có thêu rồng với đầy đủ 5 móng. Một số từ ngữ chỉ dành cho vua và hoàng tộc mà thôi. Áo của vua được gọi là long bào hay hoàng bào. Thân thể của vua gọi là long thể. Mặt vua gọi là long nhan. Ý của vua gọi là thánh ý. Ấn của vua gọi là ngọc tỷ. Giường vua nằm gọi là long sàng. Chuối vua ăn gọi là chuối ngự. Vua bịnh thì gọi là vua se mình. Mồ mả của vua thì gọi là lăng tẩm. Vua chết thì nói là vua băng hà. Hoàng hậu sinh con thì gọi là hoàng hậu lâm bồn.
Không một thần dân nào dám gọi tên vua hay dùng tên vua để đặt tên cho con mình. Do đó trong tiếng Việt có những chữ đồng nghĩa nhưng không đồng âm vì phải đọc trại ra. Nghĩa trở thành ngãiđức: đước; đảm: đởm; phúc: phước; nhân: nhơn; hoa: huê; nhật: nhựt; hoàng: huỳnh; vũ: võ; uy: oai; dũng: dõng; tôn: tông; nhậm: nhiệm v.v... Thay vì nói: ăn ở cho có nhân có nghĩa và phải có đức độ người ta nói: ăn ở cho có nhơn có ngãi và phải có đước độCan đảm trở thành can đởm.
Điều này rất phổ cập từ thế kỷ 17 ở Đàng Trong, vùng ảnh hưởng của họ Nguyễn. Chữ phúc trở thành phước vì đó là chữ lót của các chúa Nguyễn bắt đầu từ chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đến các vua nhà Nguyễn sau nầy. Vua Gia Long tên là Nguyễn Phúc Ánh. Bảo Đại tên là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy. Đảm, Tôn, Nhậm là tên gọi của vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.
Cách xưng hô của người Việt Nam thời phong kiến rất phức tạp vì tùy thuộc vào địa vị và tuổi tác của người xưng hô. Đại danh từ ngôi thứ nhất của Pháp là JE và của Anh là I. Trong tiếng Việt ta có: Trẫm, Thần, Thiếp, Lão, Ta, Tôi, Tao, Tớ, Con, Cháu, Em, Anh...
Tiếng Việt phong phú vì Việt Nam là giao điểm tiếp thu văn hóa Trung hoa, Ấn Độ, văn hóa Hồi giáo và Thiên Chúa giáo. Dân tộc Việt Nam trải qua hàng ngàn năm nô lệ và hàng trăm năm dưới chế độ phong kiến và độc tài nên phải khéo léo trong lời nói và cách sử dụng từ ngữ mới sống yên ổn được.
NGOẠI NGỮ TRONG TIẾNG VIỆT
Ngôn ngữ nào cũng có sự vay mượn ngôn ngữ nước ngoài. Hoa Kỳ là một nước hợp chủng nên sự vay mượn từ ngữ nước ngoài càng nhiều hơn. Những chữ bungalow, amigo, adios, coup d’etat, kindergarten, Salem, ahimsa… vay mượn từ tiếng Bengali, Tây Ban Nha, Pháp, Đức, Do Thái, Ấn Độ.
Nước ta trải qua một quá trình thuộc địa lâu dài nên sự vay mượn ngôn ngữ từ các quốc gia đô hộ rất nhiều. Ngay từ thế kỷ 2 sau Tây Lịch đã có người Việt đậu hiếu liêm hay mậu tài (1). Từ thế kỷ 11 đã có những kỳ thi tam trường trong nước ta. Tất cả sách vở mà các thì sinh học để dự các kỳ thi trên đều xuất phát từ Trung Hoa. Trên thế giới không có dân tộc nào say mê đọc truyện Tầu và hiểu trọn vẹn như người Việt Nam. Cho đến ngày nay các tu sĩ Phật giáo hay các thầy thuốc Đông Y đều phải học chữ Hán để nghiên cứu kinh Phật và y học cổ truyền Trung Hoa. Tất cả các từ ngữ triết học, luật học, mỹ thuật học, tôn giáo, văn chương, y học của Việt Nam đều vay mượn của Trung Hoa. Hoàng Xuân Hãn soạn quyển Danh Từ Khoa Học bằng cách dịch các danh từ khoa học của Pháp ra Việt–Hán. Hán tự giống như chữ La Tinh. Tất cả các loại thảo mộc hay dược thảo đều có tên Hán tự. Dây chùm bao (Passiflora) được gọi là lạc tiên; vỏ quít khô được gọi là trần bì; củ cỏ gấu (Cyberno Bulbosus) thì gọi là hương phụ; cây muồng trâu (Cassia Alata) là nam đại hoàng; cây sống đời (Kalanchoe Pinnata) là lạc diệp sinh căn.
VNăm 1945 là năm những danh từ Việt–Hán được phổ biến sâu rộng trong quần chúng khiến cho người dùng tự tín và thích thú hơn mặc dù chỉ hiểu lờ mờ. Người ta dùng chữ phụ nữ thay thế cho chữ đàn bà vẫn thường được nghe trước đó. Trẻ em hay con nít được gọi là nhi đồng hay thiếu niên. Trai tráng được gọi là thanh niên. Khi hỏi tuổi người ta hỏi: “Anh được bao nhiêu niên kỷ?”  Khi hỏi tên người ta nói: “Quí danh anh là gì?”  Từ ngữ chánh trị và quân sự được đem ra ứng dụng. Ngôn ngữ chuyên môn và bác học được quảng bá trong quần chúng.
Trong thời ký chiến tranh cũng như khi có chánh quyền, người Cộng Sản không quan tâm đến chánh tả. Những chữ I và Y viết sao cũng đuợc miễn là đọc ra âm I là đủ rồi. Ông Nguiễn Ngu Í có vẻ thích thú về việc bãi bỏ chữ Y mà người Việt Nam nói làI dì-dách phát âm từ chữ Grec (Hy Lạp). Gạch nối không còn quan trọng nữa ngoại trừ bí danh Trường-Chinh của Đặng Xuân Khu. Vào thập niên 1960 chánh quyền miền Bắc luôn luôn nói đến sự trong sáng của tiếng Việt bằng cách tránh những từ Việt–Hán và đề cao những từ bình dân dễ hiểu như lối diễn nôm ngày xưa. Trực thăng được gọi là máy bay lên thẳng. Thủy quân lục chiến được gọi là lính thủy đánh bộ. Hội Hồng Thập Tự được gọi là Hội Chữ Thập Đỏ. Việc đề cao tiếng Việt trong sáng, việc đổi âm lịch vào năm 1967 và việc sửa bàn toán 5 nút ra 4 nút được hiểu như là một cóp nhặt sáng tạo và sự đối kháng ngấm ngầm với Trung Hoa.
Tỷ lệ người Việt Nam tin vào triết lý Phật giáo rất cao. Nhưng ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ ở Việt Nam không lớn. Lý do dễ hiểu là người Việt Nam học triết lý Phật giáo qua các sư tăng Trung Hoa chớ không qua các sư tăng từ Ấn Độ, Tích Lan hay Nepal. Phật giáo ở Việt Nam là Phật giáo đại thừa (Mahayana). Trên thực tế vai trò của đạo Phật rất nhỏ ở Ấn Độ nơì phần lớn dân chúng theo đạo Bà La Môn (Brahmanism) còn gọi là Ấn giáo (Hinduism).
Trong quá trình nam tiến dân tộc Việt Nam tiếp xúc với Chiêm Thành và Chân Lạp là hai nước chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa Ấn Độ. Tục hỏa thiêu của người Chiêm và Khmer do ảnh hưởng của người Ấn Độ mà ra. Từ thế kỷ 13 về sau người Chiêm Thành chuyển sang đạo Hồi (2). Một số khác vẫn còn theo đạo Bà La Môn. Người Khmer theo đạo Bà La Môn trước khi nghiêng theo Phật giáo tiểu thừa (Hinayana). Kiến trúc của đền Angkor Vat và Ankor Thom cho thấy ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ ở Cambodia.
Những từ Niết Bàn (Nirvana), sát na (đơn vị thời gian nhỏ nhất), Vệ Đà (kinh), Dhyana (Thiền), mật dà tăng (bột kim khí dùng làm thuốc), ưu bà di, ưu bà tắc (Nữ tu sĩ), karma (nghiệp chướng), swastika (chữ vạn), bồ đề (cây bodhi), xà tri (chetty)… đều là từ ngữ gốc Ấn Độ.
Người Việt Nam gọi thần nữ Chiêm Thành Po Nagor là bà Chúa Ngọc, vua Rudravarman III là Chế Cũ, Po Bin Swor là Chế Bồng Nga… Trong tiếng Việt không thấy nhiều vết tích của Chiêm ngữ. Tên các địa danh Chiêm Thành như Indrapura, Vijaya, Kauthara, Panduranga đã trở thành Đồng Dương, Qui Nhơn, Khánh Hòa, Ninh Thuận. Những địa danh như Phan Rí và Phan Thiết còn phảng phất những chữ Parik và Manthiet tức là tên cũ của hai địa danh nầy.
Nhiều địa danh ở miền Nam phảng phất ảnh hưởng của ngôn ngữ Khmer. Preikor (rừng gòn) đã trở thành Sài Gòn. Mỹ Tho, Sa Đéc, Bạc Liêu, Sài Mạt, Cà Mau đều được phiên âm từ chữ Khmer: Mề Sa (bà trắng), Psar Dec (chợ sắt), Po Loeuth (cây da cao); Banta Meas (Hà Tiên – thành bằng vàng). Tuk Khmau (nước đen). Những chữ ông lục (thầy tu), ốc nha (tổng trấn), Tầm Bôn (Katambon), Cần Bột (Kampot), Hương Úc (Kompong Som), La Bích (Lovek) đều là tiếng Khmer phiên âm và Việt hóa.
Vào thế kỷ 18 quân Xiêm tấn công Hà Tiên. Lúc bấy giờ người ta thường dùng chữ phi nhã phiên âm từ chữ Phya của Xiêm La. Thời bấy giờ có một người Trung Hoa tên là Trịnh Quốc Anh làm phi nhã ở huyện Tak (Phya Tak – tri huyện Tak) lên làm vua ở Thonburi (3) sau khi đánh đuổi quân Miến Điện xâm lăng.
Dưới thời Pháp thuộc người Pháp du nhập nhiều loại rau cải, trái cây và các sản phẩm kỹ nghệ vào Việt Nam. Tất cả các vật nầy đều mới lạ đối với người Việt Nam. Tên gọi của chúng được phiên âm từ tiếng Pháp.
Dưới đây là một số từ ngữ vay mượn từ tiếng Pháp: xà lách (salade), cà tô mát (tomate), xà lách son (cresson), trái bom (pomme), bánh ga tô (gateau),  (beurre),  phó mát (fromage), ra gu (ragout), la ve (bière), cùi dìa (cuillère), cái tách (tasse), rượu vang (vin), áo sơ mi (chemise), áo bành tô (paletot), áo sú chen (soutien), áo py-ja-ma (pyjama), xe ô tô (auto), xe ô-tô-buýt (bus), ca rô (carreaux), dây lập lòng (fil à plomb), xăng (essence), xà bông (savon), đạo Gia Tô (Catholicisme), kí lô (kilogramme), ác xít (acide), dây sên (chaine), ghi đông (guidon), áp phe (affaire), lấy le (prendre l’air), phú lít (police), ma trắc (matraque), át bích (arbitre), ma sơ (ma Sœur), sút (soude), cây dên (bielle), cây láp (l’arbre), cái bu-gi (bougie), thịt cóc lét (cotelette), phi-lê (filet), di-văn (divan), xà lan (chaland), xà lúp (chaloupe), xe cam nhông (camion), xe bù-ệt (broette), nhà băng (banque), ông ách (adjudant), ông Cò (commissaire), con tem (timbre), con vít (vis), xe tăng (tank), súng cà-nông (canon), bột-dền (bordel), lô-cốt (blockhaus), nồi sốt-de (chaudière), cò mi (commis-assistant), thầy su (surveillant), đốc tơ (docteur), phạm-nhe (infirmière), rua (Bonjour), xừ lủy (Monsieur, lui), bà đầm (dame), cao su (caoutchouc), săm lốp (chambre, enveloppe thường dùng ở miền Bắc), ABC (anti-Bolchévic thường dùng trong thời kỳ chiến tranh Việt Pháp) v.v…
Nhìn chung các từ ngữ liên quan đến khoa học và kỹ thuật đều được phiên âm từ tiếng Pháp. Vài địa danh ở Việt Nam ngẫu nhiên bị Pháp hóa. Trên bản đồ Việt Nam thời Pháp thuộc Đà Nẵng được ghi là Touranne; Hội An: Faifo; Vũng Tầu: Cap St. Jacques. Địa danh Chí Hòa do người Pháp ghi từ chữ Ký Hòa và Đa Kao từ chữ Đất Hộ. Cho đến bây giờ Đa Kao hay Chí Hòa vẫn còn được lưu dùng trong khi hai chữ gốc Ký Hòa và Đất Hộ biến mất hẳn. Vũng Tầu còn gọi là Ô Cấp (Au Cap). Trong thành phố nầy có bãi Ô Quắn do chữ Au Vent của Pháp (vent: gió) mà ra.
Trong tiểu sử của tướng Trần Văn Đôn người ta thấy ông sinh ở Pháp và học ở trường võ bị Tong nên liên tưởng ngay đó là một trường võ bị ở Pháp. Chữ Tong ở đây phát xuất từ chùa Thông ở Sơn Tây mà ra. Trong tiếng Pháp chữ H bị câm nên chữ Thông phát âm thành Tong.
Trên bản đồ sông Hồng được ghi là Rivière Rouge. Có bản đồ ghi là sông Koi (do chữ sông Cái mà người Pháp viết sai ra sông Koi). Sông Đà được ghi là Rivière Noire không phải vì nước đen mà vì bóng cây và núi rợp xuống mặt nước làm cho người ta thấy như nước đen ngòm vậy. Sông Lô được ghi là Rivière Claire. Nhiều nhà địa lý Việt Nam dịch ra là Thanh Giang. Mũi Ba Làng An bị ghi sai là Cap Batangan. Đèo Hải Vân được ghi là Col des Nuages v.v…
Những tên núi ở miền Bắc phần lớn do đồng bào thiểu số đặt tên. Các sông ở miền tây Bắc Bộ thường mang chữ Nậm do ảnh hưởng của đồng bào thiểu số gốc Thái. Các sông ở miền cao nguyên Trung Bộ thường mang chữ Đa do ảnh hưởng của đồng bào Thượng trong vùng mà ra.
Các giáo sĩ Tây Ban Nha (giòng Dominican và Bồ Đào Nha (giòng Jesuit) truyền giảng đạo Thiên Chúa ở nước ta ngay từ thế kỷ 16. Vào thế kỷ 19 người Tây Ban Nha có tham dự các trận đánh ở Sài Gòn với người Pháp. Đại tá Palanca đại diện Tây Ban Nha ký tên trong hòa ước 1862 với Bonard, Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp. Nhưng không thấy ảnh hưởng của tiếng Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha trong Việt ngữ ngoại trừ vài tên Thánh như Francisco, Thomaso v.v..
Tiếng Anh xuất hiện ở Việt Nam ngay dưới thời Pháp thuộc. Hầu hết những từ ngữ liên quan đến thể thao đều vay mượn từ Anh ngữ. Trẻ em Việt Nam chơi oảnh tù tì (One, two, three). Những từ tơ nít (tennis), đá banh (football), giữ gôn (goal keeper),đánh bốc (boxing), nóc ao (Knock out), nóc đao (knock down), bê nanh ti (penalty), cọt ne (corner), nét (net), sẹt vít (service), câu lạc bộ (club), yên sĩ phi lý thuần (inspiration), vô-lây (volley ball), bát-kết (basket ball), banh bong (ping pong), bia (beer), bíp tết (beef steak) đều là những từ vay mượn từ tiếng Anh. Vào tiền bán thế kỷ 20, người ta không nói “Thi sĩ đi tìm nguồn cảm hứng” mà lại nói “Thi sĩ đi tìm yên sĩ phi lý thuần”.
Vài tên nhân vật, địa danh và tác phẩm Âu Mỹ được các học giả Trung Hoa phiên dịch ra Hán tự và được người Việt Nam dùng vào đầu thế kỷ 29. Quyển Esprit des Lois của Montesquieu được dịch là Vạn Pháp Tinh Lý và Contrat Social của Jean Jacques Rousseau là Xã Ước. Montesquieu được phiên dịch thành Mạnh Đức Tư Cưu, Jean Jacques Rousseau: Lư Thoa, La Fontaine:Lã Phụng Tiên, Paris: Ba Lê; Rome: La Mã; Honolulu: Đàn Hương Sơn; Hawai: Hạ Uy Di; New York: Nữu Ước; London: Luân Đôn; Singapore: Tịnh Châu; America: A Mỹ Lệ Gia; France: Pháp Lan Sa; Italy: Ý Đại Lợi; Belgium: Bỉ Lợi Thì; Luxemburg: Lục Xâm Bảo; Garibaldi: Gia Lý Ba Đích; San Francisco: Cựu Kim Sơn; Washington: Hoa Thịnh Đốn; Karl Marx: Mã Khắc Tư; Inukai:Khuyển Dưỡng Nghị; Meiji Tenno: Minh Trị Thiên Hoàng. Người Trung Hoa phát âm chữ D thành chữ T và chữ R thành chữ L giống như một số người Bình Dương phát âm chữ T không rõ, một số người ở Kiên Giang phát âm chữ R thành chữ G, chữ TR thành CH hay một số người miền Bắc phát âm chữ L thành N và chữ TR thành GI vậy. Vì vậy Paris phiên âm thành Ba Lê; Rome thành La Mã hay Rousseau trở thành Lư Thoa.
Các nhà cách mạng Việt Nam tìm hiểu tư tưởng Tây phương qua sách dịch của Trung Hoa. Khang Hữu Vi (Kang Yu-wei) và Lương Khải Siêu (Leang Ki-chao) quan tâm đến cuộc duy tân của Nhật. Hai ông giúp cho hoàng đế Quang Tự (Kuang Hsu) thực hiện cuộc cải cách bất thành năm 1898. Cuộc canh tân 100 ngày nầy được các nhà cách mạng Việt Nam như Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu đặc biệt lưu ý đến.
Tôn Dật Tiên (Sun Yat-sen) theo đạo Tin Lành, lúc ấu thời học ở Honolulu, sau học y khoa ở Hong Kong. Ông chịu ảnh hưởng văn hóa Anh và Hoa Kỳ cũng như tư tưởng của Karl Marx lẫn Henry George. Cuộc cách mạng Tân Hợi và chủ nghĩa Tam Dân do ông đề xướng được Phan Bội Châu và sau nầy Nguyễn Thái Học đặc biệt để ý đến.
Học giả Hồ thích (Hu Shi) học ở Hoa Kỳ. Trần Độc Tú (Chen Duxiu), Châu Ân Lai (Chou Enlai), Trần Nghị (Chen Yi), Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping) học ở Pháp. Dù thuộc tả khuynh hay hữu khuynh, các nhà chánh trị trên đều hấp thụ tư tưởng Tây phương. Ít nhiều họ cũng có ảnh hưởng với những đảng viên Cộng Sản Việt Nam thân Trung Hoa như Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Sơn, Trường Chinh, Hoàng Văn Hoan.
Một số từ ngữ chánh trị mới như độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ, bình đẳng, bình quyền, bầu cử, bãi miễn, tam quyền phân lập, ngũ quyền phân lập, duy tâm, duy vật, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa duy dân, chủ nghĩa vô chánh phủ, quân chủ cộng hòa, vạn lý trường chinh… lưu hành ở Việt Nam dưới thời Pháp thuộc do ảnh hưởng của Quốc Dân Đảng và một phần nhỏ của đảng Cộng Sản Trung Hoa.
Từ thập niên 1920 đến thập niên 1950 từ ngữ chánh trị ở Việt nam rất dồi dào. Một số do ảnh hưởng của Trung Hoa Quốc Dân Đảng (Kuonmintang) và Tam Dân Chủ Nghĩa (San Min Chu I). Một số khác do ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx-Lenin sau khi Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản (Comintern hay Third International) được thành lập ở Nga năm 1919.
Nguyễn Sinh Cung hay Nguyễn Tất Thành tức Hồ Chí Minh sau nầy gia nhập đảng Cộng Sản Pháp năm 1920. Ông là người du nhập chủ nghĩa Marx-Lenin vào Việt Nam từ Trung Hoa. Với Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội (1925) và Việt Nam Cộng Sản Đảng (1930) sau đổi thành Đông Dương Cộng Sản Đảng và Đảng Lao Động Việt Nam, ông đưa ra một số từ ngữ chánh trị và Nga ngữ vào Việt ngữ. Những chữ xa hoàng (tsar), bôn-sê-vít (Bolshevik), men-sê-vít (Menshevik), Xô viết (Soviet – Ủy ban nhân dân), chế độ xa hoàng (tsarism), Xì-ta-ka-nốp (Stakanov, anh hùng lao động của Liên Sô), lựu đạn Mô-lô-tốp (lựu đạn xăng), Mát-cơ-va (Moscow), Lê-nin-gơ-rát (Leningrad), Xì-ta-lin-gơ-rát (Stalingrad), Tơ-rốt-ky (Trosky), Kom-xô-môn(Kommunistticheskii Soyuz Molodezhi – Thanh Niên Cộng Sản Đoàn) xuất hiện trên tờ Thanh Niên, cuốn Đường Kách Mệnh và những tài liệu tuyên truyền của đảng Cộng Sản và đảng Lao Động Việt Nam sau nầy.
Các từ ngữ dưới đây trở nên thịnh hành ở Việt Nam: cách mạng, tranh đấu, đấu tranh giai cấp, tư sản, vô sản, tư bản, công nông giai cấp, độc lập, bình sản, “người cày có ruộng”, giải phóng, cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng giải phóng giai cấp, trí, phú, địa, hào, áp bức, bóc lột, quốc Tế Cộng Sản (Comintern), Quốc Tế Ca (Internationale), cải cách ruộng đất, quốc hữu hóa, phát xít, Mác xít, Lê-nin-nít, Xì ta lin nít, Xô viết v.v…
Hồ Chí Minh là người thay đổi chánh tả rất nhiều. Vào thập niên 1920, lúc còn ở Paris, ông viết cho các báo Cộng Sản và Xã Hội Pháp dưới bút ký Nguyễn Ái Quấc. Năm 1926 ông viết cuốn Đường Kách Mệnh. Trong chiến tranh Việt–Pháp chữ PH được thay thế bằng chữ F cho ngắn gọn. Thay vì viết PHÁP người ta viết FÁP. Khi Trần Đại Nghĩa dùng đường rầy xe lửa và lò rèn cổ truyền để làm ra một loại súng ba-zô-ka nội hóa lấy tên là SKZ tựa hồ như súng sản xuất ở Đức hay Liên Sô vậy. SKZ là chữ viết tắt của Súng Không Zật. (Zật thay vì Giật). Giống như Hoa Kỳ, Việt Minh thường dùng những chữ viết tắt. Việt Minh (VM) là chữ rút gọn và viết tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội; Thanh Niên (TN) là chữ rút ngắn của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội. VNDCCH là chữ viết tắt của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. TTS hay tạch tạch sè là chữ viết tắt và tiếng lóng của chữ tiểu tư sản, một giai cấp bị lên án là kẻ thù của giai cấp vô sản. ABC là chữ viết tắt của chữ Pháp anti-bolchéviste. UTQ là chữ viết tắt của uống trà quạu.
Sau năm 1954 chánh quyền Ngô Đình Diệm dùng chủ nghĩa nhân vị (personalism) của nhà triết học Pháp Emmanuel Mounier để chống lại chủ nghĩa Marx-Lenin. Tổng Thống Ngô Đình Diệm theo đạo Thiên Chúa, thấm nhuần Khổng giáo và chống Cộng mãnh liệt nên ông thường nhấn mạnh đến các từ vô thần, hữu thần, tam vô, duy tâm, duy vật, vô sản, hữu sản hóa nhân dân, cải tiến cần lao, đồng tiến xã hội, bài phong đả thực, nhân bản trong các bài diễn văn do bào đệ của ông là Ngô Đình Nhu viết. Theo gương các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ ông thường hay kết thúc các bài diễn văn của ông bằng câu: “Xin Ơn Trên phù hộ cho chúng ta.” (May God bless us).
Từ năm 1960 đến năm 1975 tiếng Anh có một vị trí đặc biệt ở miền Nam Việt Nam. Phần lớn học sinh chọn tiếng Anh. Nhiều người Việt Nam học tiếng Anh để làm việc cho các công ty Hoa Kỳ. Nhưng các từ tiếng Anh được Việt hóa vẫn như cũ. Vào thập niên 1980 con em những người còn trong trại cải tạo được ‘chọn’ học Nga ngữ như là một sự trừng phạt. Trái lại con em cán bộ A, cán bộ B hay gia đình cách mạng được học tiếng Anh. Từ năm 1990 về sau Anh ngữ có vai trò độc tôn ở Việt Nam khiến cho hội nghị các nước nói tiếng Pháp ở Hà Nội năm 1997 trở nên lạc lõng vì tỷ lệ người nói tiếng Pháp ở miền Bắc sau 1954 quá nhỏ.
THẾ GIỚI VÀ TIẾNG VIỆT
Trước năm 1945 Việt Nam không được thế giới biết đến vì đó chỉ là một thuộc địa nhỏ của Pháp ở Á châu với một nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn. Từ năm 1854 về sau cả thế giới biết đến Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh đẫm máu vừa qua. Nói đến Việt Nam người ta liên tưởng đến Hồ Chí Minh, Điện Biên Phủ, Thượng Tọa Thích Quảng Đức tự thiêu, bà Ngô Đình Nhu sống động và đầy thách thức, trận đánh Khe Sanh, Tết Mậu Thân, những sát phạt đẫm máu và ghê rợn giữa các phe lâm chiến, những cuộc biểu tình triền miên, chiến dịch Hồ Chí Minh, trại học tập cải tạo, vùng kinh tế mới và cuộc tỵ nạn của trên 2 triệu người Việt Nam được gọi là thuyền nhân (boat people) và hành nhân (walking people).
Người Pháp đô hộ Việt Nam gần một thế kỷ. Nhưng số người Pháp biết tiếng Việt không nhiều ngoại trừ các nhà truyền giáo hay các nhà nghiên cứu. Thực ra những nhà trí thức uyên bác của Pháp trong trường Viễn Đông Bác Cổ (Ecole Française d’Extrême Orient) không quan tâm đến tiếng Việt mà chỉ để ý đến việc trau dồi chữ Hán để nghiên cứu lịch sử hay khảo cổ. Cha Cras, một giáo sĩ người Pháp thuộc giòng Dominican, được biết dưới tên Việt Nam, Đỗ Minh Vọng, là người rất thạo tiếng Việt và có khả năng dạy các tác phẩm Việt Nam ở đại học Văn Khoa Sài Gòn. Cha Raguin thuộc giòng Jesuit rất thông thạo lịch sử các nước Đông Á. Vị giáo sĩ nầy am tường Hán học nhưng không biết tiếng Việt.
Suốt gần một thế kỷ Pháp thuộc, sách Pháp chỉ lưu lại vài chữ Việt như nhaque (nhà quê), Việt Minh.
Đài BBC (Anh) và VOA (Hoa Kỳ) có chương trình phát thanh tiếng Việt để theo dõi diễn tiến thời cuộc ở Việt Nam. Người Anh hiểu được sự phức tạp của vấn đề Việt Nam khi đến SàiGòn giải giới quân Nhật. Người Hoa Kỳ hiểu được sự phức tạp nầy sau 10 năm có mặt ở miền Nam Việt Nam. Có khá nhiều người Hoa Kỳ nói được tiếng Việt. Phần lớn đó là những cố vấn hay nhân viên tòa đại sứ. Cũng có người nói sành tiếng Việt nhờ có vợ Việt Nam như ông Stephen Young chẳng hạn. Người Hoa Kỳ đã tốn hàng trăm tỷ Mỹ Kim suốt cuộc chiến vừa qua nhưng chỉ có một chữ Việt Cộng được ghi trong tự điển của họ mà thôi.
*****
Người Việt Nam có tiếng nói từ lâu nhưng chữ viết hiện hành được phổ biến khắp cả nước không quá một thế kỷ.
Điều đó cũng không có gì lạ cả. Người Thụy Sĩ nói ba ngôn ngữ: Pháp, Đức và Ý. Người Canada nói tiếng Anh và Pháp. Người Bỉ nói tiếng Pháp và Flamand. Tiếng quan thoại của người Trung Hoa quảng bá khắp cả nước trên dưới 70 năm nay.
Sau khi độc lập người Hoa Kỳ không ngần ngại chọn tiếng Anh làm quốc ngữ. Tiếng Anh của người Hoa Kỳ (American English) bây giờ phong phú và phổ biến hơn bất cứ ngôn ngữ nào trên thế giới vì tính hợp chủng và văn hóa đa dạng của Hoa Kỳ cũng như vì sự tiến bộ khoa học kỹ thuật và kinh tế vượt bực của nước nầy. Hàng năm tự điển Hoa Kỳ phải cập nhật từ 3000 đến 5000 từ mới để đặt tên cho những món hàng mới phát minh và sản xuất. Có nhiều sản phẩm lấy hiệu làm tên và biến tên ấy thành động từ luôn. Hoa Kỳ thoát thai là một nước thuộc địa của Anh lập quốc trên 200 năm nay và sớm trở thành một cường quốc kỹ nghệ, quân sự và kinh tế lãnh đạo toàn thế giới.
Người Hòa Lan, Do Thái và Nhật rất quan tâm đến ngoại ngữ để cập nhật với những tiến bộ khoa học, kỹ thuật và trào lưu tư tưởng quốc tế. Điều đó không có nghĩa là họ xem thường tiếng nói của họ hay họ kém cỏi hơn các dân tộc khác.
Hòa Lan là một nước nhỏ đã từng đô hộ Indonesia suốt trên 3 thế kỷ liền. Thành phố New York há không do người Hòa Lan lập ra và đặt tên là New Amsterdam? Họ há không đặt chân lên Nam Phi trước người Anh? Người Boers là hậu duệ của người Hòa Lan còn sống sót ở Nam Phi. Tổ tiên vị Tổng Thống đắc cử 4 lần trong lịch sử Hoa Kỳ, Franklin Delano Roosevelt, là người Hòa Lan.
Do Thái lập quốc năm 1948 và phục hồi tiếng Hebrew trong một thời gian kỷ lục. Các giáo sư đại học đều giảng bài bằng ngôn ngữ của họ (4) trong khi người Do Thái nói thông thạo nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới. Sau 2000 năm lưu lạc họ vẫn giữ được tiếng nói của họ nhưng họ vẫn quan tâm đến những ngôn ngữ khác vì nhiều lợi ích khác nhau giữa lúc sự đóng góp của người Do Thái vào văn minh nhân loại rất đáng kể trên mọi lãnh vực. Disraeli, Rothschild, Karl Marx, Lenin, Trotsky, Kamenev, Zinovev, Léon Blum, Einstein, Oppenheimer, Weizmann, Henri Bergson, Mendès France, Sakharov… đều là những người mang ít nhiều giòng máu Do Thái.
Nước Nhật tiến bộ nhờ cuộc canh tân năm 1868 tức là nhờ Tây phương hóa xứ sở theo tinh thần Nhật. Người Nhật khôn ngoan và khéo léo khi biết chọn cái gì để hấp thụ và loại trừ cái gì cần phải vất bỏ. Không có nhiều người Nhật trong danh sách những người lãnh giải thưởng Nobel. Nhưng giáo dục của Nhật thành công trong việc đào tạo những người trí thức cập nhật được những tiến bộ của thế giới và loài người. Nhờ đó mà nước Nhật tiến một bước rất dài trên mọi lãnh vực. Ở Á châu chỉ có Nhật thích thú với các môn thể thao, cách làm ăn, quản lý xí nghiệp, nghiên cứu và phát minh của người Hoa Kỳ mà thôi. Hay nói cách khác chỉ có Nhật mới hiểu và thực hành những điều học hỏi nơi người Hoa Kỳ có kết quả tốt mà thôi. Hiện nay người Nhật càng quan tâm đến việc dạy tiếng Anh cho trẻ em Nhật ngay từ lớp đồng ấu bằng giáo viên người Anh hay người Hoa Kỳ vì khoa học, kỹ thuật, kinh tế và thương mại vẫn phát triển mạnh ở Hoa Kỳ. Người Nhật không quên tiếng nói và không hề mất bản sắc của họ khi học hỏi nơì người khác để vươn lên.
Tôi ghi vội trường hợp của ba quốc gia nhỏ, tài nguyên không phong phú, đất đai không màu mỡ nhưng với tinh thần học hỏi, cầu tiến và tự cường họ có một địa vị xứng đáng trên thế giới.
Nhà văn Trung Hoa gốc bác sĩ, Lỗ Tấn (Lu Xun) đã khổ tâm với Ả Q tức thằng đầu chóc tiêu biểu cho thảo dân của xứ ông trước và sau cách mạng Tân Hợi. Ả Q khinh thường những người chung quanh vì không có đầu chóc như mình. Nhà văn tà phái Kim Dung (Kim Yung) dùng hình ảnh của Châu Bá Thông để mô tả quê hương ông: một nước già nua trong lịch sử nhưng ấu trĩ về nhiều mặt giống như Châu Bá Thông già mà có tư tưởng và hảnh động như đứa trẻ, võ nghệ cao cường nhưng chỉ để phô trương và biểu diễn vui chơi chớ không mang lợi ích cụ thể nào cả. Chắc chắn một số người trong chúng ta đã trải qua thời kỳ mà người mang kiếng bị mắng nhiếc và người biết ngoại ngữ bị tình nghi làm tình báo cho ngoại nhân. Những ý niệm hẹp hòi, cố chấp và tàn hại nầy tiêu diệt sự tiến bộ và dẫn đến cơn hôn mê chậm tiến triền miên.
PHẠM ĐÌNH LÂN, F.A.B.I.
__________________________
(1) Tương đương với cử nhân bây giờ. Lý Tiến là người Giao Chỉ đầu tiên được làm thứ sử Giao Chỉ dưới đời Hán Linh Đế (Han Ling-ti, 168–189) do sự tiến cử của Giả Mạnh Kiên (Zhe M’ang-jan). Trương Trọng là người Giao Chỉ đầu tiên được bổ làm thái thú Kim Thành (Kin Cheng) sau khi Lý Cầm khóc xin Hán Linh Đế cho các học sĩ Giao Chỉ được quyền làm quan ở Trung Hoa.
(2) Do sự phát âm của chữ Hồi mà người Việt Nam còn gọi người Chiêm hay Chàm là người Hời. Ảnh hưởng của Ấn giáo và Hồi giáo ở Chiêm Thành phát triển song song với Indonesia. Trên đảo Bali, một đảo nhỏ ở phía đông đảo Java, có nhiều di tích của văn hóa Ấn Độ trước khi Indonesia ngã theo đạo Hồi. Đến thế kỷ 15 hầu hết ngưòi Indonesia đều theo đạo Hồi.
(3) Kinh đô Xiêm lúc ấy là Ayuthya bị quân Miến đốt phá nên ông phải chọn Thonburi nằm trên bờ sông Chaophraya cách Bangkok 20 cây số. Tên Xiêm của Trịnh Quốc Anh là ‘Sin’. Nên người ta thường gọi ông là Phya Tak Sin. Ông lên làm vua từ năm 1767 đến năm 1781. Ông bị Chao Phraya Chakkri (tướng) Thong Duang giết chết. Thong Duang lên ngôi tức là Rama I. Vị vua Thái Lan hiện nay là Rama IX tức Bhumibol Adulyadej.
(4) Tiếng Hebrew quá khó đến nỗi người ta phải than rằng: “Khó như tiếng hebrew.”
Xin lưu ý với các bạn hữu Blogger, Website nào muốn trích đăng bài sưu tầm hay bài viết, thơ, nhạc của groupe chúng tôi về Blog, WordPress, Google Plus,​ của các anh chị, xin vui lòng đợi
 1 tuần ​sau khi bài trong Blog của chúng tôi đã đưa ra public.
Riêng phần tiếp chuyển, thì xin cám ơn quý anh chị đã giới thiệu dùm đến người thân quen.​
​Caroline Thanh Hương

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire