Kính gửi quý anh chị câu chuyện
CHIẾC ÁO BÀ BA IN HÌNH CHỮ HỶ
-ĐOÀN XUÂN THU
ĐỌC
CHIẾC ÁO BÀ BA IN HÌNH CHỮ HỶ
Đoàn Xuân Thu
Mới đầu nghe ba em gọi, tôi tưởng tên em là Muỗi.
Tôi ghẹo em: “Muỗi này!Đừng chích anh, đau lắm”. Em trề môi, vẻ không
bằng lòng: “Tên em là Muội. Muội là em. Em là Muội”. À ra thế!
Ba Muội, chú Phu, người Quảng Đông. Phu là phú, phú là
giàu. Tên chú giàu nhưng chú không giàu. Chú chỉ có chiếc xe hủ tiếu,
bán điểm tâm dưới hai tàng me đại thụ, trên vỉa hè, bên hông rạp chớp
bóng Định Tường
Má tôi đông con, cũng nghèo, có quầy bán cơm tấm gần bên.
Chủ nhựt được nghỉ học, hai đứa ra phụ chạy bàn. Em giúp
ba em. Tôi giúp má tôi. Năm ấy tôi mười tám tuổi, học Đệ nhứt, năm cuối
cùng của bậc Trung học Đệ nhị cấp. Cuối năm, tôi sẽ thi Tú tài hai. Đậu
thì lên Đại học. Rớt thì vào Thủ Đức. Chiến trường đang hồi ác liệt. Bạn
tôi, rớt Tú tài một, đi Đồng Đế, có đi mà chẳng có về. Muội, mười sáu
tuổi, học Đệ tam, trường Tàu, sắp thi bằng Cao Trung.
Muội là cô giáo dạy tôi tiếng Quảng Đông. Dách là một, dì là hai, xám là ba, xập là mười. Bài xập xám là bài mười ba lá.
Muội nói Muội không thích thanh niên đánh bài. Tôi đâu có ở không để đi
đánh bài; vì tôi còn bận tơ tưởng đến Muội của tôi suốt ngày; ngay cả
năm thi Tú tài hai, bài vở còn cả đống, tôi còn không để mắt tới nữa là.
Muôi dạy tôi tính tiền là xấu lúi. Kỷ tố là bao nhiêu.
Dách cô phảnh là một tô hủ tiếu. Tôi hỏi: “Một dĩa cơm tấm bì, tiếng
Quảng nói làm sao?” Muội nói: “Muội không biết”. Tôi nói: “Đi hỏi ba
Muôi đi!”. Muội không dám. Muội sợ ba biết Muội quen với tôi, ba Muội
rầy.
Ba Muội nói: “Con trai Việt Nam làm biếng lắm, đi chơi tối
ngày, không lo buôn bán. Không buôn bán lấy gì ăn. Không có gì ăn, làm
sao lấy vợ. Nếu lấy được vợ làm sao nuôi vợ, nuôi con”.
Tôi nói: “Muội đừng lo. Tôi sẽ rán học, thi đậu Tú tài
hai, vào Đại học Sư phạm, được hoãn dịch, đi bán chữ, để có tiền nuôi
Muội. Muội đi bán hủ tiếu, để tôi có hủ tiếu, ăn trừ cơm, trong những
ngày mưa bán ế”.
Muội nói: “Muội còn nhỏ lắm, chưa biết yêu”. Tôi nói: “Tôi sẽ chờ vài năm nữa”.
Nhưng thời cuộc biến chuyển. Tôi không chờ được Muội mà ngược lại Muội phải chờ tôi. Chờ tôi suốt cả một thời con gái.
Cuối năm đó tôi đậu Tú tài hai. Hai năm xa Mỹ Tho, đi học
Đại học Cần Thơ, tôi không còn dịp gặp Muội mỗi sáng chủ nhựt, để nói
chuyện tào lao bắc đế nữa. Tôi sắp ra trường, sẽ đổi về một quận lỵ buồn
thỉu, buồn thiu nào đó của đồng bằng sông Cửu Long; để làm một ông giáo
làng, hai mươi mốt tuổi. Tôi sẽ trở về Mỹ Tho nhờ má tôi nói với chú
Phu, ba Muội, hỏi cưới Muội cho tôi. Bây giờ tôi đã có đủ chữ để đi bán
rồi. Tôi sẽ có tiền nuôi Muội, để ba Muội không còn chê con trai Việt
Nam làm biếng nữa. Tôi sẽ không còn ăn cơm tấm má nấu. Tôi sẽ ăn hủ tiếu
Muội nấu, trừ cơm, trong những ngày mưa bán ế.
Tôi không ao ước cao xa gì hết. Chuyện ấy dành cho con nhà
giàu, quyền thế. Tôi chỉ ước được làm thầy giáo làng, có vợ bán hủ
tiếu. Vậy mà cũng không được!
Mùa hè năm 72: mùa hè lửa đỏ. Các trận đánh lớn đồng loạt
nổ ra ở Quảng Trị, Kon Tum, An Lộc. Tin chiến sự chiếm đầy mặt báo.
Trang sau là cáo phó, phân ưu những người lính tử trận. Tôi tốt nghiệp,
nhưng không được nhận nhiệm sở. Lệnh tổng động viên đã ban hành. Tôi vào trường Bộ Binh Thủ Đức.
Tôi thư về Muội bảo chờ tôi. Tôi còn quá trẻ để chết. Tôi
sẽ trở về! Tôi sẽ trở về! Tôi vẫn còn muốn ăn hủ tiếu Muội nấu, trừ cơm,
trong những ngày mưa bán ế. Hai năm xa Mỹ Tho, tôi đã ăn hủ tiếu nhiều
nơi, nhiều chỗ nhưng không nơi nào, chỗ nào nấu hủ tiếu ngon bằng Muội
của tôi.
Muội hứa sẽ chờ tôi về dẫu trời sập chăng đi nữa. Lời hứa ấy làm ấm lòng tôi suốt những ngày gian khổ giày sô, áo trận.
Tôi rời trường Bộ Binh Thủ Đức, về Thủy quân Lục chiến. Sư
đoàn là lực lượng tổng trừ bị, nên tôi lội khắp nơi: từ Cà Mau, Chương
Thiện, Bến Tre ra tận Thừa Thiên, Quảng Trị.
Một năm lính trôi qua, khi tiểu đoàn về Mỏ Cày, Bến Tre
truy kích chủ lực miền của địch về quấy rối thì tôi đạp phải mìn. Sức nổ
của trái mìn tự tạo bằng quả đạn pháo 105 lép, đẩy tôi văng tuốt xuống
mương, mình dính đầy những miểng.
Tôi không chết, như đã hứa với Muội. Trực thăng phầm phập
tải thương về Bịnh viện 3 Dã chiến Mỹ Tho. Tôi nằm trên băng ca, ngoài
hành lang trên lầu, chờ ngày mai xe hồng thập tự chuyển tôi về bịnh viện
Lê Hữu Sanh của sư đoàn ở Thị Nghè. Muội nghe tin tôi bị thương; tất tả
cùng má đến thăm. Đã hết giờ thăm thương bịnh binh, má với Muội đứng
dưới lề đường Trương Định nhìn lên nơi tôi nằm. Tôi thò cái tay, không
bị dính miểng, vẫy vẫy. Má khóc. Muội cũng khóc. Vạt áo xẩm, Muội mặc,
đẫm đầy nước mắt.
Muội sợ tôi chết, Muội khóc. Khóc cho giấc mộng tôi muốn
làm thầy giáo đi bán chữ nuôi Muội; Muội đi bán hủ tiếu cho tôi ăn trừ
cơm những ngày mưa bán ế đã không thành.
Tôi nằm bịnh viện cả tháng trời. Miểng trong người lâu lâu
lại lòi ra. Tôi nghiến răng, rút miểng ra, máu lại chảy. Tôi được hai
tuần phép để chờ ra hội đồng giám định y khoa.
Tôi trở về Mỹ Tho gặp má. Cởi giầy sô, áo trận, tôi mặc
lại chiếc áo học trò năm cũ. Tôi ra vỉa hè, dưới hai tàng me đại thụ,
bên hông rạp chớp bóng Định Tường, chạy bàn cho má tôi. Tôi gặp lại
Muội. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhứt đời tôi, khi bây giờ, tôi
nhớ lại.
Tôi hỏi Muội: “Đẹp tiếng Quảng là gì?”. Muội nói: “Hụ len. Còn yêu là ói”. Vậy thì “Nị hụ len; ngọ ói nị”. Muội mắc cỡ, ửng hồng đôi má.
Cả tháng trời nằm bịnh viện, không có dịp xài, lương vẫn y
nguyên. Tôi lãnh tiền ra, đưa cho má tôi một nửa. Má tôi không cầm
tiền, má khóc.
Tôi nài nỉ: “Em con đang sức lớn, má ơi!”
Số tiền còn lại tôi dắt Muội xuống tiệm Văn Minh, gần rạp
hát Vĩnh Lợi, mua vải cho Muội may áo. Tôi chọn một xấp gấm Thượng Hải
có in chữ Tàu.
Tôi hỏi: “Chữ Tàu đó nghĩa là gì?”
Muội nói: “Đó là chữ hỉ. Hỉ là vui. Vải này dành cho người ta may áo cưới”.
Tôi hỏi: “Muội muốn màu gì?”
“Màu đỏ hên lắm! Muội xin Trời, Phật cho anh đi đánh giặc bình an, hết giặc, về với Muội”.
Tôi nói: “Thôi! Đời anh xui quá xá rồi còn gì, muốn đi bán
chữ mà cũng không được, mới đi lính có một năm đã bị thương rồi, hên
đâu hỏng thấy”.
Tôi chọn cho Muội vải áo màu xanh đọt chuối.
Tôi bảo: “Màu xanh là màu hy vọng. Anh hy vọng Muội sẽ chờ anh dù cho trời sập tới nơi.” Muội nói: “Muội sẽ chờ.”
Tôi may cho Muội một chiếc áo bà ba để bắt đền cho chiếc
áo xẩm đẫm đầy nước mắt khi đến thăm tôi bị thương nằm ở Bệnh viện 3 Dã
chiến ngày nào.
Muội nói: “Muội mặc chiếc áo bà ba giống hệt con gái Mỹ Tho.”
“Ba má sanh Muội ra ở đây thì Muội đã là con gái Mỹ Tho
rồi; mà con gái Mỹ Tho chánh cống chưa chắc đã dám đọ với em”. Tôi nịnh
Muội.
Hai tuần phép trôi nhanh, tôi ra hội đồng giám định y khoa
tái khám, bị phân loại một, trở về tác chiến. Lại băng rừng, vượt suối,
bạc màu áo trận, mốc thích giầy sô cho đến ngày tan hàng, sập tiệm.
Tôi chỉ là một sĩ quan cấp thấp, nhưng lại thuộc binh
chủng rằn ri nên những người thắng trận cải tạo tôi hơi lâu; mãi năm năm
sau mới thả tôi về.
Tôi trở về Mỹ Tho bèo nhèo như một chiếc áo rách. Má tôi
đã mất khi tôi còn ở trong trại. Mấy đứa em giấu tôi tin buồn. Đứng
trước bàn thờ má, đốt một nén nhang, tôi không còn khóc được nữa, nước
mắt tôi đã cạn lâu rồi. Miệng tôi méo xệch như mếu, mắt chớp chớp, mặt
nhăn nhúm, giựt giựt.
Má ơi!
Tôi nhớ lại nồi cơm tấm má nấu, nồi cơm tấm nuôi tôi ăn
học. Tôi nhớ cái vỉa hè, bên hông rạp chớp bóng Định Tường, dưới hai
tàng me đại thụ mà mùa thu lá me bay bay, rơi đầy trên tóc. Tôi nhớ
những giọt nước mắt của má tôi, khi đến thăm tôi bị thương nằm ở Bịnh
viện 3 Dã chiến năm nào. Tôi nhớ những giọt nước mắt của má tôi khi
không chịu cầm số tiền lương tôi gởi. Bây giờ má tôi đã mất rồi; đàn em
tôi vẫn còn nheo nhóc.
Cả nhà đói, ăn độn bo bo mà cũng không đủ. Ăn buổi
sáng, phải chạy, lo buổi chiều. Việc chạy gạo dồn lên cả đôi vai khẳng
khiu của em gái tôi đang tuổi thanh xuân. Nhưng tuổi thanh xuân của em
tôi còn đâu nữa. Nước mất nhà tan! Chưa bao giờ tôi thấm thía câu nói ấy
cho bằng bây giờ.
Tôi không tìm gặp lại Muội nữa. Tình thơ dại của tôi đã
tan theo vận nước. Bây giờ tôi chỉ là một sĩ quan ngụy, đi cải tạo về,
mỗi tuần phải trình diện công an phường một lần cho tới ngày xả chế. Tôi
ra khỏi một nhà tù nhỏ, để vào một nhà tù lớn hơn! Tôi chỉ có chữ, mà
chữ bây giờ chẳng ai mua. Chế độ này không cần chữ. Lúc tôi lên trình
diện, lão phó công an phường lẩm nhẩm đánh vần lịnh tha của tôi mà nước
miếng tràn ra cả khóe miệng. Chế độ này cần lý lịch. Mà lý lịch tôi hạng 15, nghĩa là hạng bét, tận cùng đáy xã hội, thì tôi làm được gì bây giờ?
Tôi không tìm gặp lại Muội không phải vì tôi mặc cảm. Tôi
không có gì phải mặc cảm cả. Tôi chỉ đi lính, đánh giặc, tôi thua, giặc
bắt tôi ở tù. Thế thôi!
Tôi không tìm gặp lại Muội chỉ vì tôi không muốn mình trở
thành gánh nặng cho Muội. Yêu người, có ai muốn trở thành gánh nặng cho
người mình yêu bao giờ đâu? Tôi cũng không muốn trở thành gánh nặng cho
em tôi. Thương em, có ai muốn trở thành gánh nặng cho em mình thương bao
giờ đâu?
Tôi đã sống sót suốt năm năm trời dưới chín tầng địa ngục.
Tôi đã đói, đói đến mức phải ăn bất cứ cái gì động đậy: cóc, nhái, ễnh
ương, bù tọt. Tôi phải sống sót để trở về, như đã hứa, với Muội. Kẻ thù
muốn tôi quỳ xuống, van xin. Tôi không quỳ xuống, van xin. Kẻ thù muốn
tôi chết. Tôi không chết. Tôi đã trở về, dù thân tàn ma dại.
Em gái tôi đem chiếc nhẫn cưới của má để lại, đến vợ tên
công an khu vực cầm, để tôi có chút vốn đi buôn lậu dầu dừa. Ngày xưa
nói đến buôn lậu là nói đến tiền tỉ, đến những vật phẩm đắt tiền, trốn
thuế, chuyển hàng có xe quân cảnh hụ còi như vụ Long An. Còn bây giờ chỉ
mười lít dầu dừa, bỏ vào cặp táp, từ cầu Ba Lai qua phà Rạch Miễu về Mỹ
Tho, kiếm lời đủ mua lít gạo.
Đế quốc Mỹ, tàu to, súng lớn, không đủ sức đưa nhân dân ta
trở về thời kỳ đồ đá. Nhà nước ta, đỉnh cao trí tuệ loài người, bằng
ngăn sông, cấm chợ, rào đường, chặn ngõ dễ dàng đưa nhân dân ta trở lại
thời kỳ đồ đá, thời kỳ hái, lượm, thời kỳ của nền kinh tế tự cung, tự
cấp; bởi buôn bán, dù năm mười lít gạo, mười, hai chục lít dầu dừa là
không lao động, không sản xuất, là bóc lột, là chủ nghĩa tư bản xấu xa.
Tôi cắt tóc ngắn lên, cho gọn gàng, cho có vẻ thầy giáo.
Phần thì để né mấy tay du kích bên Cầu Bắc Tân Thạch, quê hương Đồng
Khởi. Mấy tay du kích VC này có kiểu làm tiền rất
láu cá, bằng cách làm nhục khách bộ hành qua phà, dùng súng, chận họ
lại, bắt vào hớt tóc. Tóc dài là tàn dư Mỹ Ngụy. Ngồi trước
gương của ông thợ hớt tóc đầu đường, thấy tóc mình đã điểm vài sợi bạc,
dù tôi chưa đầy ba mươi tuổi. Tôi mặc lại chiếc áo sơ mi trắng năm học
đệ nhứt, đã ố vàng. Chiếc quần xanh được nhuộm đen. Mặc áo bỏ vô quần,
mang giày với đôi vớ rách. Tôi xách chiếc cặp táp cũ nhưng không để đựng
sách vở. Sách vở ích gì cho buổi ấy. Chiếc cặp đựng cái can nhựa mười
lít dầu dừa. Tôi nhập vai thầy giáo, dù ước mơ làm thầy giáo làng, có vợ
bán hủ tiếu để tôi ăn trừ cơm những ngày mưa bán ế, đã chết tự lâu rồi,
từ Mỹ Tho qua Bến Tre dạy học, canh giờ đến lớp hay tan học, hòa vào
đám học trò để vượt qua trạm Cầu Bắc.
Tôi đi buôn lậu dầu dừa được chừng sáu tháng thì thằng bạn
học cũ thời trung học cũng ở tù về, rủ tôi hùn tiền mua chiếc xích lô
đạp. Nó chạy sáng, tôi chạy chiều hoặc ngược lại. Thằng bạn tôi nói, cay
đắng: “Thằng Mỹ quýnh quáng bỏ chạy, còn làm rớt lại cái tên Mỹ, Xô xích Le, xe xích lô”.
Tôi thì lại nói: “Mấy ông tai to, mặt lớn của tụi mình thì hô hào tử
thủ, để có thời giờ tom góp vàng bạc, đô la rồi dông, còn làm rớt lại
chức dân biểu. Xô xích Le, dân biểu. Dân biểu đâu, mình chạy đó”
Một buổi chiều sau khi chở khách ra bến xe cổng thị xã,
tôi thả xe không về chợ Vòng Nhỏ thì thấy một ông cắc chú đội chiếc nón
mây đan, rộng vành, như Khương Đại Vệ trong phim kiếm hiệp tàu trước 75.
Ông mặc chiếc quần tiều lỡ, quá gối, chiếc áo thung tay dài gần tới cùi
chỏ, bỏ vô quần, gánh hai cái cần xé không, đi lủi thủi. Tướng đi ngờ
ngợ, quen quen. Chú Phu rồi chứ chẳng ai!
“Đi xích lô hông? Chú ba!” Chú Phu nhìn lên, ngơ ngác, ngờ ngợ một lát, rồi nhận ra tôi. Tôi đã đổi thay nhiều quá.
“Chèn ơi! Vậy mà ngộ tưởng nị chết rồi.””
“Chết sao được! Sống nhăn răng ra đây nè.””
Tôi chở chú Phu về nhà. Cũng căn nhà lợp ngói âm dương ở
đường Huyện Toại, nhưng có vẻ tiêu điều, u ám. Chiếc xe hủ tiếu xập kỷ
nìn, năm xưa, ngày cũ, còn đậu trước hàng ba, xẹp bánh, bụi bám, nhện
giăng.
“Nị ở chơi, ngộ nấu hủ tiếu cho nị ăn. Lâu quá ngộ cũng không có ăn hủ tiếu.”
“Vậy chứ chú thôi bán hủ tiếu rồi sao?””
“Thôi lâu rồi! Giờ ai cũng mạt, tiền đâu ăn hủ tiếu.””
“Thì bán cho mấy ổng.”
“Ổng nào? À mấy ông cách mạng hả? Ờ mấy ổng đâu có thèm ăn hủ tiếu. Mấy ổng ăn vàng không hà.”
Chú Phu đem ra một tô hủ tiếu và một lít rượu. Tô hủ tiếu,
chú Phu vừa mới nấu, cũng chịu cùng số phận tang thương theo vận nước,
chỉ nước lèo, bánh và lèo tèo những lát thịt mỏng như tờ giấy quyến.
Tôi nhớ tô hủ tiếu Muội nấu cho tôi ăn trong những ngày
mưa bán ế. Tô hủ tiếu với bánh bột lọc làm bằng gạo Gò Cát, trụng với
nước thật sôi, dai mà không bở như hủ tiếu Sài Gòn, nước lèo nấu bằng
xương heo, tôm khô, khô mực, cải bắc thảo, thêm vài tép mỡ, điểm xuyến
vài cọng sà lách non xanh với mấy cọng hành luộc, một nhúm giá, vài lát
ớt sừng trâu xắt mỏng, rắc chút tiêu, ăn với xì dầu và dấm đỏ. Tô hủ
tiếu, người thương mình nấu, ly cà phê sữa nhỏ, xây phé nại, do chính
tay mình pha, trong những ngày bão rớt, mưa dầm, bán ế giờ đã trở thành
kỷ niệm.
Tôi không tiện hỏi thăm về Muội, dù rất muốn.
Tôi hỏi: “Chú bây giờ làm gì để sống?”
“Thì nị thấy đó, ngộ đi mua ve chai, lông vịt về bỏ cho
vựa. Nghề ve chai lông vịt mà, nghề móc bọc, móc bọc ny lon đem xuống
sông rửa, rồi cân ký. Bây giờ khổ quá! Nhớ hồi xưa mình vui quá!”
Lít rượu ngâm ô môi, cho có màu, chú, cháu cưa hai gần hết.
Chú Phu, chưn nam đá chưn chiêu, lảo đảo bước vào nhà trong, lấy ra cái bọc ny lon.
Chú nói: “Con Muội! Nó gởi cho nị. Con Muội! hu hu! Nó chết rồi!”
“Muội ơi!”
“Ngộ biết nó thương nị. Lúc nị đi ở tù, nó nói nó chờ nị
được tha về, nó sẽ đi bán hủ tiếu nuôi nị. Nhưng có được đâu! Tụi nó
đánh ăn tụi mình rồi lại giành ăn, đánh lẫn nhau. Thiệt hết biết! Hết
Pol Pot, Bành Trướng Bắc Kinh, rồi Nạn Kiều. Ngộ sợ tụi nó sẽ đuổi cha
con ngộ về Trung Quốc. Tưởng thống chế bỏ ngộ chạy ra Taiwan. Mao xếnh
xáng rượt ngộ chạy tuốt đến đây. Mỹ Tho đất lành chim đậu. Rồi sanh ra
con Muội. Ngộ nói với con Muội: “Mỹ Tho bây giờ đất dữ rồi, thôi bay đi
con!”
Muội ngần ngừ, có ý đợi nị về. Ngộ nói: “Nị làm quan, mà lại rằn ri nữa, tù biết đến lúc nào ra? Nếu không đi; sợ không còn có dịp. Cái cột đèn còn muốn đi nữa mà.”
“Suốt cuộc đời bán hủ tiếu, ky cỏm được hai cây vàng, ngộ xuống năn nỉ mấy xì thẩu dưới chợ Mỹ Tho cho con Muội một chổ.”
“Tàu nó ra cửa được ba ngày đêm thì bơm nhớt bị hư, máy
lột dên, trôi giạt. Ở hải phận quốc tế, tàu buôn qua lại nườm nượp mà
không ai vớt. Ba tuần linh đinh trên biển, tuyệt vọng quá, mấy người đi
trên tàu gom quần áo, giày dép lại, đốt. Cuối cùng có chiếc tàu buôn tội
nghiệp dừng lại, thả thang dây xuống. Ba tuần trên biển, nị nghĩ coi,
sức đâu nữa mà leo. Nó sút tay, rớt xuống biển. Chết chìm. Hu hu.”
Chú Phu không còn nước mắt nữa để khóc, chú chỉ kêu hu hu,
tiếng kêu của con thú bị một vết thương trí mạng, bị ví vào đường cùng,
không lối thoát thân.
“Đêm trước khi đi, nó đưa cho ngộ cái này, nói nếu nị còn sống sót trở về, thì đưa lại cho nị. Hu hu!”
Trong cái bọc ny lon, chú Phu đưa cho tôi, là chiếc áo bà ba hình chữ hỉ tôi may cho em ngày cũ.
Muội ơi! Xác em giờ ở phương nào. Trôi vào đất Thái hay vào Nam Dương. Áo bà ba, Muội yêu, hòa biển tím. Tình còn đây trời đày ta mất nhau.
Tôi không còn khóc được nữa, nước mắt tôi đã cạn lâu rồi. Miệng tôi méo xệch như mếu, mắt chớp chớp, mặt nhăn nhúm, giựt giựt.
“Muội ơi! Anh sẽ đem chiếc áo bà ba hình chữ hỉ của chúng mình theo, ra biển!”
Đoàn xuân Thu.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire